100 câu hỏi giải quyết tranh chấp về thừa kế tại Tòa án

100 CÂU HỎI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ TẠI TÒA ÁN

  1. VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN

Câu hỏi 1. Việc kiện chia thừa kế thường xảy ra khi người để lại di sản chết đã lâu. Việc áp dụng pháp luật để giải quyết là pháp luật ở thời điểm mở thừa kế hay thời điểm chia thừa kế?

Trả lời:

Nguyên tắc chung về áp dụng pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) là: “Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực”. Như vậy, để xác định một hành vi là xử sự hợp pháp hay không hợp pháp phải căn cứ vào pháp luật ở thời điểm thực hiện hành vi; việc xác định các quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ một sự kiện pháp lý thì phải căn cứ vào pháp luật ở thời điểm có sự kiện pháp lý ấy.

Pháp luật về thừa kế được áp dụng để giải quyết tranh chấp, qua các thời kỳ, cần lưu ý các văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là:

– Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 của TANDTC hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế.

– Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 (có hiệu lực thi hành từ ngày 10/9/1990 đến ngày 30/6/1996) – Pháp lệnh Thừa kế.

– BLDS năm 1995 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/1996 đến ngày 31/12/2005).

– BLDS năm 2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006 đến ngày 31/12/2016).

– BLDS năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017).

Trong pháp luật về thừa kế, thời điểm mở thừa kế là thời điểm rất quan trọng. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại tài sản chết hoặc Tòa án tuyên bố là đã chết (khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015). Thời điểm mở thừa kế cũng là thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế (Điều 614 BLDS năm 2015). Như vậy, quan hệ thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế nên phải áp dụng pháp luật ở thời điểm mở thừa kế để xác định các chủ thể tham gia quan hệ thừa kế (là những người thừa kế), xác định đối tượng của quan hệ thừa kế (là di sản thừa kế). Quy định của pháp luật ở mỗi thời kỳ có khác nhau nên kết quả xác định sẽ có khác nhau. Ví dụ: Mở thừa kế ở thời kỳ thi hành BLDS năm 1995 thì con của người để lại thừa kế chết cùng thời điểm với người để lại thừa kế sẽ không được hưởng thừa kế và cũng không có thừa kế thế vị; nhưng nếu mở thừa kế ở thời kỳ thi hành BLDS năm 2005 thì có thừa kế thế vị (các cháu được hưởng thay phần người con của người để lại thừa kế). Mở thừa kế ở thời kỳ thi hành BLDS năm 1995 thì đất nông nghiệp trồng cây hàng năm chỉ là di sản cho người có đủ điều kiện nhất định (như có điều kiện sử dụng trực tiếp đất đúng mục đích – Điều 740 BLDS năm 1995) nhưng mở thừa kế trong thời kỳ thi hành BLDS năm 2005 thì đất này là di sản cho mọi đối tượng thừa kế theo pháp luật.

Di sản thuộc loại tài sản cụ thể nào là yếu tố quan trọng để xác định pháp luật áp dụng (là nhà ở thi áp dụng pháp luật về nhà ở, là quyền sử dụng đất thì áp dụng pháp luật đất đai). Việc xác định này là căn cứ vào đặc điểm của tài sản ở thời điểm mở thừa kế. Khi người để lại tài sản chết, tài sản là nhà ở thì dù nhà ở không còn tại thời điểm tranh chấp vẫn phải xác định di sản là nhà ở, là tranh chấp thừa kế nhà ở chứ không phải chỉ là tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất.

Tuy xác định di sản, xác định người thừa kế là theo pháp luật ở thời điểm mở thừa kế nhưng việc chia di sản lại phải theo pháp luật ở thời điểm chia. Ví dụ: Thừa kế mở vào năm 2000, chưa có quy định về hạn chế phân chia thừa kế trong một thời hạn nếu bên vợ hoặc chồng của người chết bị “ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống”, nhưng ở thời điểm chia là năm 2007 có quy định hạn chế này (Điều 686 BLDS năm 2005) thì việc chia phải theo quy định hạn chế này.

Pháp luật thừa kế có một chế định quan trọng là thừa kế theo di chúc. Pháp luật các thời kỳ đều quy định di chúc có hiệu lực ở thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm di chúc có hiệu lực khác với khái niệm di chúc hợp pháp. Khi có nhiều bản di chúc hợp pháp thì bản cuối cùng có hiệu lực (khoản 5 Điều 643 BLDS năm 2015). Vì vậy, pháp luật để xác định di chúc hợp pháp lại là pháp luật ở thời điểm lập di chúc theo nguyên tắc quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) nêu trên. Khi lập di chúc, người lập di chúc không thể biết mình sẽ chết vào lúc nào, không thể biết pháp luật ở thời điểm mình chết quy định như thế nào. Vì vậy, pháp luật đề xác định di chúc hợp pháp không thể là pháp luật ở thời điểm mở thừa kế.

Như vậy, việc áp dụng pháp luật về thừa kế cần lưu ý theo ba thời điểm khác nhau; Cụ thể là: Pháp luật áp dụng để xác định di chúc hợp pháp là pháp luật ở thời điểm lập di chúc; để xác định di sản thừa kế, người thừa kế, các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế là pháp luật ở thời điểm mở thừa kế; để chia di sản thừa kế là pháp luật ở thời điểm chia.

Câu hỏi 2. Kiện chia thừa kế nhà ở, thừa kế quyền sử dụng đất thì áp dụng pháp luật vẽ nhà ở, pháp luật về đất đai hay pháp luật về thừa kế?

Trả lời:

Đây là việc lựa chọn áp dụng pháp luật giữa pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành. Nhà ở hay quyển sử dụng đất đều là tài sản có thể trở thành di sản thừa kế nên có quy định về thừa kế nhà ở trong pháp luật về nhà ở, có quy định về thừa kế quyền sử dụng đất trong pháp luật về đất đai. Do đó, pháp luật về nhà ở, pháp luật về đất đai là pháp luật chuyên ngành, pháp luật về thừa kế là pháp luật chung.

Hiệu lực của văn bản pháp luật thường được quy định ngay trong văn bản đó. Tuy nhiên, nguyên tắc chung là pháp luật chuyên ngành được ưu tiên áp dụng; khi pháp luật chuyên ngành không có quy định thì mới áp dụng pháp luật chung.

Ví dụ: Luật Đất đai năm 2013 có quy định tại khoản 1 Điều 179 là: “người Việt Nam định cư ở nước ngoài… nếu không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 186 của Luật này thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó”. Đây là một quy định khác với quy định của BLDS năm 2015. Điều 610 BLDS năm 2015 quy định mọi cá nhân đều bình đẳng về “quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Khoản 2 Điều 660 BLDS năm 2015 quy định: “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phần chia di sản bằng hiện vật”. Trong trường hợp này phải áp dụng pháp luật chuyên ngành là Luật Đất đai năm 2013. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2013 không có quy định về người thừa kế, về di chúc… thì việc xác định người thừa kế, về di chúc hợp pháp… lại phải áp dụng các quy định của BLDS năm 2015.

Câu hỏi 3. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế áp dụng theo pháp luật ở thời điểm mô thừa kế, thời điểm tranh chấp hay thời điểm khởi kiện? Thời hiệu yêu cầu chia di sản có khác với thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế và thời hiệu yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế hay không? Việc tranh chấp thừa kế xảy ra trước thời điểm thi hành Bộ luật Dân sự năm 2015 (ngày 01/01/2017) thì áp dụng thời hiệu theo pháp luật nào?

Trả lời:

Thời hiệu khởi kiện là thời hiệu quy định cho hành vi khởi kiện. Do vậy, theo nguyên tắc thông thường thì pháp luật áp dụng là pháp luật ở thời điểm khởi kiện. Thời điểm khởi kiện là ngày khởi kiện. Khi pháp luật đã có quy định về “ngày khởi kiện” thì phải xác định theo quy định của pháp luật chứ không thể xác định theo thời điểm mở thừa kế hay thời điểm tranh chấp. Theo quy định tại Điều 190 BLTTDS năm 2015 thì:

– Ngày khởi kiện là ngày đương sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án hoặc ngày được ghi trên dấu của tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi (khoản 2).

– Trường hợp người khởi kiện gửi đơn khởi kiện bằng phương thức gửi trực tuyến thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn (khoản 3).

– Trường hợp chuyển vụ án cho Tòa án khác theo quy định tại Điều 41 BLDS năm 2015 thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn khởi kiện đến Tòa án đã thụ lý nhưng không đúng thẩm quyền (khoản 4).

Thời hiệu khởi kiện về thừa kế được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh Thừa kế (có hiệu lực thi hành từ 10/9/1990). Tại Điều 36 của Pháp lệnh đã có sự phân biệt khởi kiện về thừa kế cổ khởi kiện vé “chia di sản”, về “xác nhận quyền thừa kế của mình, về “bác bỏ quyền thừa kế của người khác”. BLDS năm 1995 không nêu cụ thể (Điêu 648) nhưng BLDS năm 2005 (Điều 645) và BLDS năm 2015 (Điều 623) đều phân biệt rõ ba quyền khác nhau như tại Pháp lệnh Thừa kế. Tuy nhiên, cần lưu ý là tại Pháp lệnh Thừa kế, BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 đều quy định thời hiệu khởi kiện đối với bà quyền nêu trên là bằng nhau (10 năm kể từ ngày mở thừa kế). Theo quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015, thì thời hiệu khởi kiện đối với mỗi quyên nêu trên mới có sự khác nhau, cụ thể là:

– Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (khoản 1).

– Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (khoản 2).

Theo nguyên tắc chung thì pháp luật áp dụng là pháp luật ở thời điểm thực hiện hành vi (Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020) nhưng nếu luật có quy định khác thì phải áp dụng quy định cụ thể của luật. Tại khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015 đã có quy định: “Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì… Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Do vậy, thời hiệu khởi kiện về thừa kế của các tranh chấp thừa kế xảy ra trước ngày 01/01/2017 (ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực) mà đến ngày 01/01/2017 chưa giải quyết xong thì đều áp dụng thời hiệu theo quy định mới của BLDS năm 2015.

Tuy nhiên, những quy định cũ về thời hiệu khởi kiện vẫn phải được ghi nhớ để xác định việc giải quyết trước đây đã đúng quy định của pháp luật hay chưa vì không được áp dụng quy định mới để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực (khoản 2 Điều 688 BLDS năm 2015).

Câu hỏi 4. Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời hiệu thừa kế “kể từ thời điểm mở thừa kế”. Vậy quy định về tính thời hiệu khởi kiện từ ngày 10/9/1990 đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1991 có còn áp dụng không?

Trả lời:

Thời hiệu khởi kiện về thừa kế lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh Thừa kế. Cũng tại Pháp lệnh này có quy định đối với các trường hợp thừa kế mở trước ngày ban hành Pháp lệnh thì thời hiệu khởi kiện tính từ ngày công bố Pháp lệnh (khoản 4 Điều 36). Ngày công bố Pháp lệnh là ngày 10/9/1990. Tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế đã quy định rõ là các trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 thì tính thời hiệu khởi kiện từ ngày 10/9/1990 (điểm b mục 10).

Trong thời kỳ thi hành BLDS năm 1995, tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình cũng quy định về thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 tiếp tục thực hiện theo quy định của Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990.

Trong thời kỳ thi hành BLDS năm 2005, tuy không có hướng dẫn mới nhưng thực tiễn xét xử vẫn áp dụng quy định của Nghị quyết số 02/HĐTP nêu trên.

BLDS năm 2015 quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế được xác định “kể từ thời điểm mở thừa kế” và không có quy định riêng như Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế. Vì vậy, có quan điểm cho rằng đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/9/1990 thi cũng phải tính thời hiệu khởi kiện kể từ thời điểm mở thừa kế. Quan điểm này là áp dụng phù hợp với lời văn của điều luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử vẫn áp dụng như quy định của Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế liên tục, kể cả thời kỳ không có hướng dẫn mới là thời kỳ thi hành BLDS năm 2005. Nay nếu quay trở lại áp dụng tính thời hiệu với các trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/9/1990 theo ngày mở thừa kế là không hợp lý. Vì vậy, Chánh án TANDTC đã công bố Án lệ số 26/2018/AL ngày 17/10/2018 về xác định thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/9/1990.

Án lệ số 26/2018/AL có nội dung là: Vụ án có thời điểm mở thừa kế lần đầu là năm 1972, khởi kiện chia thừa kế năm 2010, xét xử sơ thẩm năm 2012, xét xử phúc thẩm năm 2013. Quyết định giám đốc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm, giao xét xử sơ thẩm lại. Việc khởi kiện, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đều ở thời kỳ thi hành BLDS năm 2005, có thời hiệu khởi kiện về thừa kế là 10 năm. Tuy nhiên, việc xét xử sơ thẩm lại là thời kỳ thi hành BLDS năm 2015 nên thời hiệu được áp dụng theo Điều 623 là 30 năm. Thời điểm bắt đầu thời hiệu được tính theo quy định của Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế.

Như vậy, việc tính thời hiệu khởi kiện về thừa kế từ ngày 10/9/1990 đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 vẫn tiếp tục được áp dụng trong thời kỳ thi hành BLDS năm 2015.

Câu hỏi 5. Khi nhận đơn khởi kiện đã thấy quá thời hiệu khởi kiện thì Tòa án có thụ lý không? Tòa án có nghĩa vụ phải giải thích về thời hiệu cho các đương sự không?

Trả lời:

Đã có một thời kỳ Tòa án trả lại đơn khởi kiện nếu đã hết thời hiệu khởi kiện. Đó là thời kỳ thi hành BLTTDS năm 2004 (điểm a khoản 1 Điều 168). Ở thời kỳ này, Tòa án không thụ lý vụ việc dân sự nếu thấy đã hết thời hiệu khởi kiện.

Đến thời kỳ thi hành BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012) thì không còn quy định trả lại đơn khởi kiện khi đã hết thời hiệu khởi kiện. Từ thời điểm này, Tòa án vẫn thụ lý vụ việc dân sự dù khi nhận đơn khởi kiện đã nhận thấy có dấu hiệu hết thời hiệu khởi kiện. Sau khi đã thụ lý, nếu xác định đúng là đã hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án mới đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự. Quy định này xuất phát từ thực tế là cẩn thụ lý mới có điều kiện xác định những yếu tố khách quan có thể được trừ thời gian tính thời hiệu hoặc xác định những yếu tố bắt đầu lại thời hiệu được quy định trong BLDS.

BLTTDS năm 2015 cũng quy định như BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có những quy định mới vẽ thời hiệu. Khoản 2 Điều 149 BLDS năm 2015 quy định:

“Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ, việc.

Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyển từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”.

Tương ứng với quy định về có yêu cầu áp dụng thời hiệu của BLDS nêu trên, BLTTDS năm 2015 cũng có quy định mới tại điểm e khoản 1 Điều 217 về một trong những trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là: “Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết”.

Quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu là một quyền quan trọng của đương sự. Tuy nhiên, đương sự có rất nhiều quyền, Tòa án không thể phổ biến lại mọi quyền của đương sự. Do đó, chỉ những quyền mà pháp luật quy định Tòa án phải phổ biến thì Tòa án mới có nghĩa vụ phải phổ biến.

Ví dụ:

– Khoản 6 Điều 48 BLTTDS năm 2015 có quy định Thẩm phán: “Giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý”.

– Khoản 6 Điều 239 BLTTDS năm 2015 có quy định: “Chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không”.

Không có quy định nào về việc Tòa án phải giải thích về thời hiệu cho đương sự. Do vậy, Tòa án không có nghĩa vụ phải giải thích về quyền này. Trong thực tiễn xét xử thì các Tòa án cũng không giải thích cho đương sự về quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu.

Câu hỏi 6. Cớ phải cứ hết thời hiệu khởi kiện thì đi sản chuyển thành tài sản chung hay không?

Trả lời:

Đã có một thời kỳ có nhận thức cho rằng, cứ hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế thì di sản chuyển thành tài sản chung của những người thừa kế. Đây là nhận thức không đúng vì nếu nhận thức như vậy thì quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế không còn cần thiết nữa.

Di sản cũng là tài sản chung nhưng là tài sản chung đặc biệt. Tính đặc biệt ấy thể hiện ở một số điểm sau:

– Tài sản chung thường được hình thành theo ý chí của các đồng chủ sở hữu, còn di sản hình thành từ sự kiện mở thừa kế của người có I quan hệ thừa kế với các đồng thừa kế, không phụ thuộc vào ý chí của I các đồng thừa kế. Người cha chết thì phát sinh quyền thừa kế của các 1 con với tài sản của người cha để lại, không phụ thuộc vào mong muốn của các con.

– Do việc thụ động trở thành đồng thừa kế nên việc quản lý di sản thừa kế cũng thụ động, không quản lý chủ động như các chủ sở hữu chung với tài sản chung.

– Các đồng thừa kế còn có quyền từ chối không nhận di sản vì còn liên quan đến các nghĩa vụ tài sản.

– Các đồng thừa kế là các chủ sở hữu chung có quan hệ thân thích đặc biệt nên thời hiệu khởi kiện dành cho quan hệ thừa kế dài hơn các quan hệ tranh chấp tài sản chung khác.

– Quyền thừa kế là quyền phát sinh thụ động, còn mang tính tạm thời, sẽ lại mất quyên sau một thời hạn nhất định (hết thời hiệu khởi kiện) chứ không tồn tại ổn định như quyền sở hữu chung.

Di sản là một loại tài sản chung đặc biệt và thường được chuyển thành tài sản chung thông thường. Có thể ví dụ một trường hợp điển hình vẽ chuyển di sản thành tài sản chung như sau:

Ông A là chủ sở hữu ngôi nhà N. Nhà này là tài sản riêng của ông A. Vợ chồng ông A bà B có 03 người con là X, Y, z. Ngày 15/01/2002, ông A chết. Ngày 10/5/2003, bà B cùng 03 người con làm thủ tục đăng ký thừa kế. Ngày 15/6/2003, bà B cùng 03 người con được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu ngôi nhà N. Như vậy, từ ngày 15/6/2003, ngôi nhà N đã chuyển từ di sản của ông A thành tài sản chung của bà B và 03 con. Sau ngày 15/6/2003, nếu bà B và các con có tranh chấp về ngôi nhà này thì là vụ án tranh chấp tài sản chung chứ không còn là tranh chấp thừa kế. Và đương nhiên không thể áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế cũng như các quy định của pháp luật thừa kế nữa.

Đó là trường hợp di sản chuyển thành tài sản chung điển hình, có sự thống nhất ý chí của các đồng thừa kế với chứng nhận của cấp có thẩm quyền. Trong thực tế còn có nhiều hình thức chuyển di sản thành tài sản chung. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TANDTC đả quy định về 02 trường hợp được coi là chuyển di sản thành tài sản chung, cụ thể là:

Trường hợp 1: Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế thì di sản đó chuyển thành tài sản chung. Như vậy, đây là trường hợp các đồng thừa kế có văn bản xác nhận họ là chủ sở hữu chung đối với tài sản (chỉ có họ là đóng thừa kế), và văn bản này phải được lập trong thời hạn khởi kiện về quyền thừa kế. Có đủ điều kiện nêu trên thì kể từ ngày ký văn bản, di sản chuyển thành tài sản chung, không đòi hỏi phải có xác nhận của cấp có thẩm quyền hay sang tên chủ sở hữu tài sản. Quy định này là để khắc phục cho thực tế các quy định về thủ tục khai nhận thừa kế, đăng ký tài sản còn chưa dễ dàng cho người dân tiếp cận.

Trường hợp 2: Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Đây là trường hợp không có văn bản nhưng khi xảy ra tranh chấp thì tất cả đương sự đều thừa nhận là tài sản chung, họ chỉ yêu cầu chia tài sản chung chứ không tranh chấp về tính chất của tài sản. Họ đều đã thừa nhận là tài sản chung thì việc xem xét có phải tài sản chung hay không là không cẩn thiết hoặc cho rằng hết thời hiệu chia thừa kế để không giải quyết là vô lý.

Như vậy, giao dịch chuyền di sản thành tài sản chung là giao dịch thông thường, phổ biến. Di sản có thể được chia thành tài sản riêng, có thể chuyển thành tài sản chung dưới nhiều hình thức. Ngoài hình thức điển hình được lập thành văn bản, có sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền như đã nêu ở trên thi còn nhiều hình thức khác. Vì vậy, vấn đề di sản chuyển thành tài sản chung là vấn đề tồn tại thường xuyên và vĩnh cửu cũng giống như sự xuất hiện của di sản.

Khi di sản chuyển thành tài sản chung thì hậu quả pháp lý sẽ khác. Khi không còn là di sản thi tranh chấp về tài sản ấy không còn là vụ án thừa kế, không thể áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế cũng như các quy định khác về thừa kế. Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện của tranh chấp thừa kế tính từ thời điểm mở thừa kế nhưng thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện tranh chấp tài sản chung là thời điểm biết quyển, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (khoản 1 Điều 154 BLDS năm 2015). Nhận biết thời điểm chuyển từ di sản thành tài sản chung có ý nghĩa pháp lý quan trọng để áp dụng các quy định về tài sản chung, trong đó có quy định về thời hiệu khởi kiện tranh chấp tài sản chung.

Câu hỏi 7. Việc giải quyết tranh chấp thừa kế có áp dụng quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện hay không?

Trả lời:

Thời hiệu khởi kiện được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, tuy nhiên đến BLDS năm 1995 mới có quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Điều 171 BLDS năm 1995 quy định:

“1. Thời hiệu khởi kiện bắt đấu lại trong trường hợp:

  1. a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
  2. b) Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;
  3. c) Các bên đã tự hòa giải với nhau.
  4. Thời hiệu khởi kiện bắt đầu lại, kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều này”.

Nội dung quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện như Điều 171 nêu trên được giữ nguyên tại Điều 162 BLDS năm 2005 và Điều 157 BLDS năm 2015.

Tranh chấp thừa kế cũng là một loại tranh chấp có áp dụng thời hiệu khởi kiện nên quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện cùng phải được áp dụng đối với tranh chấp thừa kế. Thời điểm bắt đầu của thời hiệu khởi kiện về thừa kế được quy định chung là thời điểm mở thừa kế (thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 thì tính từ ngày 10/9/1990). Khi có một trong các sự kiện nêu tại khoản 1 Điều 171 BLDS năm 1995 thì thời hiệu sẽ tính lại kể từ ngày tiếp theo sự kiện ấy.

Bên có nghĩa vụ là bên đã được xác định trong khởi kiện của nguyên đơn. Việc “thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ” có thể được thể hiện trong văn bản trình bày hay lời khai của bên có nghĩa vụ. Việc thừa nhận này không có quy định bắt buộc về hình thức nên có thể chỉ cần có chứng cứ chứng minh là đã thừa nhận. Ví dụ: Tại một buổi làm việc của chính quyền địa phương, người quản lý tài sản tranh chấp đã khai đây là di sản thừa kế nên họ sẽ phải chia cho những người thừa kế khác.

Quy định “Các bên đã tự hòa giải với nhau” mà không có quy định khác thì cần phải hiểu là việc hòa giải có thể có hoặc không có sự tham gia của các tổ chức hòa giải nhưng phải là sự thỏa thuận thống nhất của tất cả những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chứ không thể chỉ là một nhóm người.

Pháp luật không quy định về thời điểm phát sinh sự kiện bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Như vậy, sự kiện ấy có thể phát sinh ở thời điểm còn trong thời hiệu khởi kiện và cũng có thể phát sinh ở thời điểm đã hết thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, trong thời kỳ thi hành BLDS năm 2015 thì còn phải lưu ý đến quy định: “hết thời hạn… thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản”. Đây là một quy định xác định di sản được đương nhiên trở thành tài sản của người quản lý sau thời điểm hết thời hiệu khởi kiện. Do vậy, sau thời điểm này thì việc bắt đầu lại thời hiệu không còn ý nghĩa nữa; việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện về thừa kế chỉ có ý nghĩa khi thời hiệu khởi kiện chưa hết.

Ví dụ: Thừa kế mở ngày 10/01/2001. Di sản là động sản nên thời hiệu khởi kiện là 10 năm kể từ ngày 10/01/2001, thời hiệu khởi kiện chia thừa kế động sản này sẽ hết vào ngày 10/01/2011. Ngày 15/9/2009, bên quản lý di sản có bản cam kết sẽ chia di sản cho những người thừa kế. Thời hiệu khởi kiện chia di sản sẽ được bắt đầu lại từ ngày 16/9/2009. Như vậy, thời hiệu khởi kiện phải đến ngày 16/9/2019 mới hết. Trước ngày 16/9/2019, di sản vẫn tồn tại, không trở thành tài sản của người đang quản lý. Những người thừa kế khác khởi kiện trước ngày 16/9/2019 là vẫn trong thời hiệu khởi kiện.

Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện cũng là một quy định về thời hiệu. Do vậy, Tòa án cũng chỉ áp dụng quy định này khi có yêu cầu và trong thời hạn được quy định tại khoản 2 Điều 149 BLDS năm 2015.

Câu hỏi 8. Thời gian chở ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan nhà nước khác giải quyết có được trừ vào thời hiệu khởi kiện thừa kế không?

Trả lời:

Khi kéo dài thời hiệu khởi kiện, có bên đương sự được lợi nhưng sẽ có bên đương sự bị bất lợi. Do đó, chỉ được kéo dài thời hạn của thời hiệu khởi kiện khi có quy định của pháp luật.

Pháp luật không có quy định thời gian chờ UBND hoặc các cơ quan nhà nước khác giải quyết được trừ vào thời hiệu khởi kiện nhưng pháp luật có quy định về “thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện”. Khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 quy định một trong các sự kiện mà thời gian xảy ra sự kiện này không tính vào thời hiệu khởi kiện là “trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyển yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu”. Do vậy, cẩn xem xét các trường hợp cụ thể mà UBND hoặc các cơ quan nhà nước khác giải quyết xem có phải là trở ngại khách quan làm cho việc khởi kiện không thể đúng hạn hay không.

Thời điểm để tính thời hạn khởi kiện là ngày khởi kiện. Ngày khởi kiện đà được quy định tại Điều 190 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, việc khởi kiện phải hợp pháp, không phải cứ có đơn là đã được công nhận khởi kiện. Khởi kiện hợp pháp phải có các điều kiện bắt buộc như đơn làm đúng quy định (theo Điều 189 BLTTDS năm 2015), người khởi kiện có quyền khởi kiện, có tài liệu kèm theo đơn khởi kiện… Do đó, làm cho người khởi kiện không thực hiện được một trong các điều kiện của khởi kiện hợp pháp thì cũng phải coi là trở ngại cho việc khởi kiện. Tuy nhiên, phải là trở ngại khách quan, tức là người khởi kiện không tự mình vượt qua được, không có lỗi để xảy ra trở ngại.

Việc UBND giải quyết có liên quan đến khởi kiện về thừa kế thường là việc hòa giải tranh chấp đất đai của UBND cấp xã theo quy định của Luật Đất đai. Có thời kỳ, tranh chấp đất đai được hiểu là tất cả các tranh chấp liên quan đến đất đai nên việc thuộc nhiệm vụ hòa giải của cấp xã rất lớn. Từ thời kỳ thi hành BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011, có sự giải thích tranh chấp đất đai chỉ là tranh chấp “ai là người có quyền sử dụng đất” thì việc tranh chấp thừa kế có liên quan đến đất đai phải hòa giải tại cấp xã ít đi nhưng không phải là không còn. Tuy nhiên, việc hòa giải ở cấp xã cũng được quy định có thời hạn, hòa giải không thành hoặc không tiến hành hòa giải được thì phải chuyển cho Tòa án giải quyết. Việc UBND cấp xã có chậm trễ trong việc hòa giải không cản trở việc người có quyền khởi kiện làm đơn khởi kiện. Do vậy, thực tiễn xét xử không trừ thời gian chờ giải quyết tại UBND vào thời hiệu khởi kiện.

Đối với thời gian giải quyết của các cơ quan nhà nước khác có liên quan đến việc thừa kế cũng không phải đương nhiên được trừ vào thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Ví dụ: Một người đã bị xét xử về tội xâm phạm tính mạng người để lại di sản nên không thể khởi kiện chia thừa

kế, nhưng sau khi được cấp giám đốc thẩm xác định không phạm tội thì họ lại có quyền khởi kiện và thời gian xem xét giám đốc thẩm phải được trừ vào thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, thời gian trước khi có bản án có hiệu lực pháp luật thì không được trừ vào thời hiệu vì thời gian đó họ vẫn có thể thực hiện được quyền khởi kiện.

Câu hỏi 9. Khi nào di sản là nhà, đất dùng làm nơi thờ cúng được chia thừa kế theo pháp luật? Người đang quản lý di sản đang thờ cúng không đồng ý chia thừa kế thì Tòa án có chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của các đồng thừa kế khác không?

Trả lời:

Nhà, đất dùng làm nơi thờ cúng là phần di sản thừa kế theo di chúc. Thừa kế theo pháp luật không có quy định về di sản dùng làm nơi thờ cúng. Khi phần di chúc về nơi thờ cúng là hợp pháp thì di chúc phải được tôn trọng. Cách thức quản lý, sử dụng, các điều kiện cụ thể nêu trong di chúc đối với nhận di sản dùng làm nơi thờ cúng cũng phải được tôn trọng nếu không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Trong di chúc không đặt ra các điều kiện cụ thể khác về quản lý di sản làm nơi thờ cúng thì áp dụng quy định của pháp luật về việc quản lý này.

Di sản dùng làm nơi thờ cúng cũng là tài sản chung của những người thừa kế. Tuy nhiên, tài sản chung này thuộc loại tài sản chung hợp nhất, không phân chia. Theo quy định tại Điều 645 BLDS năm 2015 thì những người thừa kế không có quyền yêu cầu chia phần di sản dùng làm nơi thờ cúng cho mỗi người mà chỉ có các quyền là:

– Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

– Nêu di chúc đã chỉ định người quản lý di sản thờ cúng, những người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Như vậy, những người thừa kế chỉ có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp về việc ai là người quản lý di sản thờ cúng, điều kiện cụ thể của việc quản lý chứ không có quyền yêu cầu chia di sản thờ cúng.

Tuy nhiên, có một quy định của Điều 645 nêu trên có cách hiểu khác nhau, đó là quy định: “Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.

– Cách hiểu thứ nhất: Sau khi người cuối cùng trong số người thừa kế theo di chúc chết thì di sản dùng để thờ cúng sẽ không tiếp tục dùng để thờ cúng nữa mà chuyển sang thuộc sở hữu của người đang quản lý hợp pháp.

– Cách hiểu thứ hai: Đây là trường hợp đến thời điểm di chúc có hiệu lực thì tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết. Trong trường hợp này thì phần di chúc về di sản thờ cúng không có hiệu lực nhưng không chia theo pháp luật mà thuộc về người “đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.

Tinh thần chung của Điều 645 là tôn trọng việc dành di sản dùng vào việc thờ cúng. Vì vậy, cách hiểu thứ hai là phù hợp với tinh thần của Điều luật.

Câu hỏi 10. Theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản và 30 năm đôi với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu. Vậy, đối với trường hợp đủ điều kiện để xác lập quyền sở hữu, nhưng thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế vẫn còn thì tài sản đó có còn là di sản thừa kế hay công nhận quyền sở hữu cho người quản lý?

Trả lời:

Theo quy định của pháp luật dân sự thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế (khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015).

Về thời điểm mở thừa kế: nguyên tắc chung, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định tùy từng trường hợp cụ thể (Điều 71, Điều 611 BLDS năm 2015).

Tuy nhiên, về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đối với bất động sản là nhà ở và quyền sử dụng đất cần phải lưu ý các trường hợp đặc biệt sau:

– Đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày 10/9/1990 mà di sản là bất động sản thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là 30 năm, tính từ ngày 10/9/1990 (ngày công bố Pháp lệnh Thừa kế).

– Đối với những trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời hiệu khởi kiện được kéo dài, cần phân biệt:

(1) Trường hợp không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện (Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10).

(2) Trường hợp có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/9/2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện (Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11).

Về thời điểm bắt đầu tính đề xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp luật có quy định khác (Điều 236 BLDS năm 2015).

Như vậy, với những quy định nêu trên của pháp luật, có thể xảy ra trường hợp đã hơn 30 năm kể từ ngày mở thừa kế, nhưng thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là nhà ở và quyền sử dụng đất vẫn còn. Do đó, có thể dẫn đến tình trạng di sản là bất động sản đã được chiếm hữu đủ 30 năm trở lên và đủ điều kiện để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu và vẫn còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế.

Trường hợp này theo quan điểm của chúng tôi thì cần phải xem xét, nếu người chiếm hữu đã làm thủ tục và đã được xác lập quyền sở hữu theo đúng quy định của pháp luật, thì khi đó tài sản không còn là di sản thừa kế của người chết để lại, nên các đồng thừa kế không có quyền yêu cầu chia đối với khối tài sản này. Ngược lại, nếu người chiếm hữu chưa làm đầy đủ thủ tục để được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (mặc dù đã đủ điều kiện), thì vẫn còn là di sản thừa kế chưa chia và nếu còn thời hiệu thì các đồng thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án xem xét phân chia khối di sản này theo đúng quy định của pháp luật.

Cầu hỏi 11. Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 nếu hết thời hạn yêu cầu chia di sản thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản. Người thừa kế trong quy định này là người thừa kế ô hàng thứ nhất hay bất kỳ người thừa kế ở hàng nào?

Trả lời:

Để khắc phục tình trạng còn khoảng trống pháp lý đối với di sản

thừa kế hết thời hiệu khởi kiện thừa kế và không đủ điều kiện để phân chia tài sản chung, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định đối với trường hợp hết thời hạn yêu cầu chia di sản thừa kế, cụ thể là, hết thời hạn yêu cầu chia di sản thừa kế thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 BLDS năm 2015 hoặc di sản thuộc về Nhà nước nêu không có người chiếm hữu (Điều 623 BLDS năm 2015).

Quy định này đã khá rõ ràng và giải quyết căn bản, hợp lý đối với di sản hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế. Tuy nhiên, vẫn còn có cách hiểu khác nhau về khái niệm người thừa kế đang quản lý di sản trong khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015 nói trên.

Có quan điểm cho rằng, người thừa kế trong quy định này phải hiểu là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất, vì sẽ là bất hợp lý nếu người quản lý di sản là cháu của người để lại di sản, trong khi các con của người để lại di sản (là chú, bác của người quản lý di sản lại không được hưởng).

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 613 BLDS năm 2015 thì: “Người thừa kế là cá nhấn phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế\

Như vậy, quy định về người thừa kế trong BLDS không phân biệt người thừa kế ở hàng thứ nhất, thứ hai… Do vậy, cần phải hiểu người đang quản lý di sản quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015 không đòi hỏi phải thuộc hàng thừa kế thứ nhất mà có thể là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai, thứ ba.

Cách hiểu này cũng hoàn toàn hợp lý, vì di sản thậm chí có thể được xác lập quyền sở hữu cho người không phải là người thừa kế của người để lại di sản, nếu người này chiếm hữu ngay tình, liên tục, công

khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất động sản như quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015.

Câu hỏi 12. Ông A chết năm 2011. Hàng thừa kế thứ nhất của ngA có 03 người. Năm 2018, ông B khởi kiện yêu cầu những người thừa kế của ông A trả tiền mà ông A đã vay của ôngB. Vợ và con của ông thừa nhận ông A có nỢ tiền ông nhưng yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện. Trường hợp này đình chỉ giải quyết vụ án vì hết thời hiệu khởi kiện hay bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện để giải quyết vụ án?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 623 BLDS năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Năm 2018, ông B mới khởi kiện là quá 03 năm kể từ khi ông A chết năm 2011. Tuy nhiên, vợ con ông A là người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại (theo quy định tại Điều 615 BLDS năm 2015) đã thừa nhận ông A có nợ tiền ông B nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 157 BLDS năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện vụ án được bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo ngày vợ con ông A thừa nhận ông A có nợ tiền ông B. Do vậy, Tòa án cẩn tiếp tục giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Câu hỏi 13. Người đang quản lý tài sản thừa nhận tài sản này là di sản thừa kế có phải là điều kiện để bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện về chia di sản thừa kế hay không?

Trả lời:

Điều 157 BLDS năm 2015 quy định 03 trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện như sau:

– Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

– Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

– Các bên đã tự hoà giải với nhau.

Việc người đang quản lý tài sản thừa nhận tài sản này là di sản thừa kế không phải là thừa nhận nghĩa vụ. Đóng thời, người quản lý tài sản có thể là người thừa kế hoặc không phải là người thừa kế.

Do vậy, người đang quản lý tài sản thừa nhận tài sản này là di sản thừa kế không phải là điều kiện để bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế.

Ngoài ra, trường hợp có tranh chấp, các đóng thừa kế (có thể có người đang quản lý tài sản) đều thừa nhận di sản đã chuyển thành tài sản chung thì cần lưu ý vấn đề lựa chọn pháp luật áp dụng cho đúng.

Bởi lẽ, khi di sản chuyển thành tài sản chung thì hậu quả pháp lý sẽ khác. Khi không còn là di sản thì tranh chấp về tài sản ấy không còn là vụ án thừa kế (mà là tranh chấp về tài sản chung), không thể áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế cũng như các quy định khác về thừa kế[2].

Câu hỏi 14. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất có khác với các loại tài sản khác cùng là bất động sản hay không?

Trả lời:

Điều 107 BLDS năm 2015 quy định bất động sản bao gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai; Tài sản khác gắn

liến với đất đai, nhà, công trình xây dựng; Tài sản khác theo quy định của pháp luật.

Điều 623 BLDS năm 2015 quy định thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Như vậy, theo các quy định pháp luật nêu trên thì thời hiệu khởi kiện tranh chấp thừa kế (tranh chấp về yêu cầu chia di sản) đối với bất động sản là 30 năm, không phân biệt bất động sản là quyền sử dụng đắt hay tài sản khác cùng là bất động sản.

Câu hỏi 15. Tòa án nhận được đơn khởi kiện của công Ty Yêu cầu giải quyết vụ án chia thừa kế nhưng tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn chưa đủ. Tòa án đã yêu cẩu ông T bổ sung đơn khởi kiện và gia hạn thời gian bổ sung đơn khởi kiện nhưng ông T vẫn không nộp đủ. Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Sau đó, ông T khởi kiện lại nhưng thời hiệu khởi kiện đã hết. Trong trường hợp này có thể tính thời hiệu khởi kiện kể từ ngày nộp đơn khởi kiện lần đầu hay không?

Trả lời:

Nếu Tòa án quyết định trả lại đơn khởi kiện và quyết định trả lại đơn khởi kiện đã có hiệu lực (nếu có khiếu nại thì cũng đã được giải quyết khiếu nại) thì việc khởi kiện lần đó đã chấm dứt. Do vậy, thời hiệu khởi kiện tính từ lần nộp đơn sau, không được tính từ lần nộp đơn trước.

Cần phải phân biệt nghĩa vụ nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện với việc bổ sung đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện chưa đầy đủ về mặt nội dung thì phải bổ sung, nếu không bổ sung đầy đủ nội dung thì đơn đó chưa hợp lệ, Tòa án không thể nhận đơn đó để thụ lý. Còn

tài liệu, chứng cứ là những căn cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện thì họ có quyền xuất trình trong suốt quá trình giải quyết vụ án và ngay cả tại phiên tòa chứ không đòi hỏi phải xuất trình ngay trước khi thụ lý vụ án.

Hình thức, nội dung đơn khởi kiện được quy định cụ thể tại Điều 189 BLTTDS năm 2015.

Theo quy định tại Điều 6 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS thì:

“Về nguyên tắc, khi gửi đơn khởi kiện cho Tòa án, người khởi kiện phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện và những yêu cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do khách quan nên họ không thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, thì họ phải nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ khác, người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án’.’

Như vậy, không phải cứ không đủ chứng cứ kèm theo thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Ngay từ khi chưa thụ lý vụ án thì Tòa án không thể đã có kết luận người khởi kiện không xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ để trả lại đơn khởi kiện. Do đó, việc trả lại đơn khởi kiện với lý do không xuất trình đủ tài liệu, chứng cứ là không đúng.

  1. VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Câu hỏi 16. Cha mẹ đã lập di chúc cho 02 người con, có công chứng. Các người con khác phát hiện nên không đông ý và yêu cầu cha mẹ phải chia đều cho các con. Sau đó, cha mẹ lập di chúc có nội dung các con đều được hưởng di sản nhưng di chúc này chưa được công chứng. Vậy di chúc nào hợp pháp?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 624 BLDS năm 2015 thì di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương, là sự bày tỏ ý chí của một người khi còn sống định đoạt tài sản của mình, để chuyển toàn bộ hoặc một phần tài sản của người đó cho một hay nhiều người thừa kế sau khi người đó chết. Sự thể hiện ý chí này được thể hiện, hoặc bằng giấy tờ (di chúc viết hay chúc thư), hoặc bằng lời nói miệng (di chúc miệng). Việc chuyển tài sản của người quá cố cho người khác sau khi người đó chết theo di chúc gọi là thừa kế theo di chúc.

Về di chúc hợp pháp, Điều 630 BLDS năm 2015 quy định:

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

  1. a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
  2. b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
  3. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
  4. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
  5. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
  6. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nêu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”.

Có quan điểm cho rằng, cứ phải đi công chứng di chúc thì di chúc mới hợp pháp. Đây là quan điểm sai. Bởi vì, di chúc có thể được lập dưới nhiều hình thức, lựa chọn hình thức nào thì phải đúng quy định đối với hình thức đó chứ không đòi hỏi di chúc phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Ví dụ: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (thường gọi là di chúc mật) thì chỉ cần người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc với nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015 (Điều 633 BLDS năm 2015); Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (không cần công chứng) quy định tại Điều 634 BLDS năm 2015; Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên (khoản 1 Điều 638 BLDS năm 2015); Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó (khoản 2 Điều 638 BLDS năm 2015)…

Trong trường hợp này, để xác định di chúc nào là di chúc hợp pháp, di chúc nào là di chúc không hợp pháp thì cần xác định di chúc đó là loại di chúc nào, di chúc đó đã đúng quy định về hình thức, nội dung hay không? Nếu cả hai di chúc đểu hợp pháp thì di chúc sau có hiệu lực pháp luật.

Lưu ý:

  1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế – khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2015 (thời điểm người có tài sản chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết).

– Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây (các khoản 2, 3 Điều 643 BLDS năm 2015):

+ Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc.

+ Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.

+ Di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nêu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực pháp luật.

– Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật (khoản 4 Điều 643 BLDS năm 2015).

– Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể đặc biệt trong quan hệ với người để lại di sản thừa kế, BLDS quy định một số đối tượng được thừa kế tài sản của người để lại di sản mà không phụ

thuộc vào di chúc. Điều 644 BLDS năm 2015 quy định những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc gồm: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chông; con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Những người này được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 BLDS năm 2015 hoặc là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015.

– Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng. Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đểu đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng (Điều 645 BLDS năm 2015).

– Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ước nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết (Điều 648 BLDS năm 2015).

– Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nêu người thừa kế theo di chúc yêu cầu. Đây là điểm mới của BLDS năm 2015 (khoản 3 Điều 642) cần lưu ý khi giải quyết vụ án về thừa kế.

Câu hỏi 17. Năm 2001, cha mẹ làm giấy tờ cho con đất nhưng không công chứng. Năm 2014, người mẹ chết. Năm 2018, người cha yêu cầu được chia di sản của người mẹ. Vậy giấy tờ cha mẹ đã cho con năm 2001 có hiệu lực không? Tòa án có chấp nhận yêu cầu của người cha không?

Trả lời:

Có quan điểm cho rằng, cha mẹ đã làm giấy cho con tài sản có công chứng, chứng thực thì cha mẹ không có quyền đòi lại tài sản đó. Đây là quan điểm sai. Bởi vì, cẩn phải xác định tài sản đó thuộc loại tài sản gì theo quy định của pháp luật. Mỗi loại tài sản có quy định khác nhau, thời điểm có hiệu lực đối với việc tặng cho, chuyển nhượng… cũng theo các quy định của pháp luật khác nhau. Ví dụ như:

– Hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại: Có hiệu lực kể từ thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng (khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014).

– Theo BLDS năm 2015: Hợp đồng liên quan đến việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính theo quy định tại Điều 503 BLDS năm 2015, khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013… Theo BLDS năm 1995, việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm được đăng ký quyền sử dụng đất tại UBND cấp có thẩm quyền.

Trong trường hợp này, việc cha mẹ làm giấy tờ cho con đất năm 2001 chưa có hiệu lực (chưa đăng ký với UBND cấp có thẩm quyền) nên tài sản vẫn thuộc cha mẹ. Người cha có quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của người mẹ.

Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của người cha phải căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án theo quy định của pháp luật.

Câu hỏi 18. Di chúc viết tay do chính người để lại di chúc viết ra nhưng không ký trong từng trang hoặc quên không đánh số thứ tự có hợp pháp không?

Trả lời:

Quy định của pháp luật nước ta về nội dung di chúc bằng văn bản qua các thời kỳ khác nhau.

– Điều 13 Pháp lệnh Thừa kế quy định về nội dung bản di chúc:

“1. Trong bản di chúc phải ghi rõ: Ngày, tháng, năm lập di chúc; họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc; họ, tên người được hưởng di sản; tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; tài sản, quyền về tài sản để lại cho người, cơ quan tổ chức được hưởng; nơi có tài sản đó. Nếu người lập di chúc giao nghĩa vụ cho người thừa kế thì phải nêu rõ là giao cho ai, nghĩa vụ gì.

  1. Trong bản di chúc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”.

– Khoản 2 Điều 656 BLDS năm 1995, khoản 3 Điều 653 BLDS năm 2005 đều có quy định: “Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang, thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”.

– Khoản 3 Điều 631 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi

trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa”.

Như vậy, quy định di chúc phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ từng trang của người lập di chúc có hiệu lực từ khi BLDS năm 1995 có hiệu lực (ngày 01/7/1996). Xét về quy định của pháp luật, di chúc được lập trong thời kỳ quy định phải được đánh số thứ tự và ký hoặc điểm chỉ từng trang là bắt buộc thì di chúc nào không tuân theo quy định này là di chúc không hợp pháp.

Lưu ý:

– Thực tiễn cho thấy, trong trường hợp di chúc được lập trong thời kỳ quy định phải được đánh số thứ tự và ký hoặc điểm chỉ từng trang là bắt buộc nhưng di chúc đó không tuân thủ quy định này thì di chúc đó vẫn có giá trị để xác định chia di sản thừa kế khi tất cả các thừa kế đồng ý đều thừa nhận di chúc này (di chúc đó vẫn có hiệu lực).

– Theo quy định của BLDS năm 2015 thì có di chúc quy định di chúc phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ từng trang của người lập di chúc theo quy định tại Điều 631 (Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng – Điều 633, Di chúc bằng văn bản có người làm chứng – Điều 634) nhưng cũng có di chúc không quy định di chúc phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ từng trang của người lập di chúc theo quy định tại Điều 631 (Lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc ủy ban nhân dân cấp xã – Điều 636; Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực – Điều 638). Do vậy, để xác định di chúc có hợp pháp hay không hợp pháp thì phải xác định di chúc đó thuộc loại di chúc nào và quy định của pháp luật đối với từng loại di chúc đó.

Chú ý: di chúc có thể hợp pháp một phần khi phần đó đúng quy định của pháp luật.

Câu hỏi 19. Trường hợp có nhiều bản di chúc nhưng không xác định được thời điểm lập di chúc mà nội dung của các bản di chúc này không thống nhất, có mâu thuẫn với nhau (không xác định được đầu là bản di chúc sau cùng) thì giải quyết như thế nào?

Trả lời:

Thực tế, có quan điểm cho rằng, trường hợp có nhiều bản di chúc nhưng không xác định được thời điểm lập di chúc mà nội dung của các bản di chúc không thống nhất, có mâu thuẫn thì coi như không có di chúc, không có di chúc nào có hiệu lực. Đây là quan điểm không đúng. Bởi vì, bản chất xã hội pháp luật của di chúc đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Trước đây, Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 chưa có quy định cụ thể để giải quyết vấn đề pháp lý này. Tuy nhiên, BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 hiện nay đã có quy định về trường hợp có nhiều di chúc đối với một tài sản, thì chỉ bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật (Điều 670 BLDS năm 1995, Điều 667 BLDS năm 2005, Điều 643 BLDS năm 2015).

Nếu không thể xác định được đâu là di chúc sau cùng thì coi như bản di chúc không xác định được là cùng thời gian với bản di chúc xác định được. Khi nội dung khác nhau thì phải áp dụng quy định về giải thích di chúc.

Lưu ý: quy định về việc giải thích di chúc qua các thời kỳ có sự khác nhau.

– Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 không có quy định về việc giải thích di chúc.

– BLDS năm 1995 (Điều 676) và BLDS năm 2005 (Điều 673) đều quy định cơ bản giống nhau, cụ thể: Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc, thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc, thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực.

– BLDS năm 2015 có quy định khác so với các quy định trước đây về việc giải thích di chúc. Điều 648 BLDS năm 2015 quy định giải thích nội dung di chúc như sau: “Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chêt với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí vẽ cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực”.

Như vậy, điểm khác nhau giữa BLDS năm 2015 và BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 là BLDS năm 2015 quy định về việc giải thích di chúc trong trường hợp người thừa kế di chúc không thống nhất về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết còn theo BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 thì coi như không có di chúc và di sản được thừa kế theo pháp luật.

Câu hỏi 20. Bộ luật Dân sự năm 2015 không có quy định về di chúc chung. Vậy những di chúc chung của vỢ chồng được lập sau ngày 01/01/2017 có hiệu lực không?

Trả lời:

BLDS năm 2015 không có quy định về di chúc chung là một trong những điểm khác so với quy định của các BLDS trước đây. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng, BLDS năm 2015 không quy định về di chúc chung không có nghĩa là cấm lập di chúc chung. Theo nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015 thì: “Cá nhàn, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyển, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Do vậy, nếu di chúc chung tuân theo các quy định về di chúc hợp pháp (Điều 630 BLDS năm 2015) thì vẫn hợp pháp. Ví dụ: Di chúc đánh máy, hai vợ chồng cùng ký, có đủ nhân chứng, nội dung không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không có thỏa thuận khác thì khi một người chết trước, phần di chúc của người đã chết vẫn có hiệu lực.

Tuy nhiên, BLDS năm 2015 không quy định về di chúc chung thì không có những quy định biệt lệ về di chúc chung như quy định của pháp luật trước đây. Ví dụ như quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng:

– Điều 671 BLDS năm 1995 quy định: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vỢ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”.

– Điều 668 BLDS năm 2005 quy định: “Di chúc chung của vỢ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”.

Lưu ý: Nêu di chúc chung được lập ở thời điểm trước BLDS năm 2015 thì vẫn có hiệu lực và xử lý theo quy định của pháp luật ở thời điểm lập.

Câu hỏi 21. Theo quy định tại Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ thời điểm người sau cùng chết. Trường hợp vợ chồng chết cách nhau hơn 10 năm thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản của người chết trước có bị ảnh hưởng không? Những người thừa kế của người chết trước có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế khi người sau chưa chết hay không?

Trả lời:

Xuất phát từ những bất cập phát sinh từ di chúc chung của vợ chóng, BLDS năm 2015 đã bãi bỏ quy định về di chúc chung vợ chồng. Tuy nhiên, pháp luật không cấm việc lập di chúc chung vợ chồng. Mặt khác, nhiều bản di chúc chung của vợ chồng được lập trong thời kỳ BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 có hiệu lực pháp luật vẫn đang tồn tại. Do vậy, vấn đề nêu trong câu hỏi vẫn có giá trị thực tiễn cao.

Pháp luật dân sự các thời kỳ trước cũng quy định không giống nhau về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng.

Theo quy định tại Điều 671 BLDS năm 1995 thì: “Trong trường hợp vỢ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vỢ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vỢ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”.

BLDS năm 2005 lại quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết” (Điều 668).

Như vậy, liên quan đến thời điểm có hiệu lực đối với di chúc chung của vợ chồng trước tiên phải xác định di chúc chung đó được lập tại thời điểm BLDS nào đang có hiệu lực pháp luật? Trường hợp di chúc được lập tại thời điểm BLDS năm 1995 có hiệu lực thi hành thì cần phải xem kỹ nội dung di chúc, nếu di chúc không có nội dung thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật, tức là phần di chúc của người chết trước có hiệu lực pháp luật. Trường hợp này thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đối với khối di sản của người chết trước được tính từ ngày người này chết (ngày mở thừa kế).

Ngược lại, nếu trong di chúc có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di chúc chung có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết. Trường hợp này thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế phải tính từ ngày người sau cùng chết.

Trường hợp di chúc chung của vợ chồng được lập tại thời điểm BLDS năm 2005 có hiệu lực thi hành thì di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chóng cùng chết. Tương tự như trên, trường hợp này thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế cũng được tính từ ngày người sau cùng chết.

Cũng cần lưu ý thêm, BLDS năm 2015 không quy định về trường hợp di chúc chung của vợ chồng, nhưng cũng không có quy định nào cấm việc vợ chồng lập di chúc chung. Trường hợp vợ chồng vẫn lập di chúc chung trong thời gian BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành thì cần căn cứ vào nội dung của di chúc và các quy định của pháp luật về di chúc hợp pháp để xem xét, đánh giá khi giải quyết.

Câu hỏi 22. Cách tính hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 644 BLDS năm 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó”.

Như chúng ta đã biết, di sản bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác, đây được gọi là di sản thừa kế của người chết để lại.

Tuy nhiên, trước khi khối di sản của người chết để lại được xem xét để chia cho các đồng thừa kế theo quy định của pháp luật, thì phải xem xét các nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại.

Theo quy định tại Điều 615 BLDS năm 2015 về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại quy định:

“ỉ. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

  1. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
  2. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  3. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản

theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân”.

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau: Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng; Tiên cấp dưỡng còn thiếu; Chi phí cho việc bảo quản di sản; Tiên trợ cấp cho người sống nương nhờ; Tiên công lao động; Tiền bồi thường thiệt hại; Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước; Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân; Tiền phạt; Các chi phí khác (Điều 658 BLDS năm 2015).

Như vậy, trường hợp di sản thừa kế được chia theo quy định của pháp luật thì khối di sản dùng để chia cho các thừa kế chỉ là phần còn lại của toàn bộ khối di sản của người chết trừ đi các khoản liên quan đến nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và các chi phí liên quan đến thừa kế.

Ví dụ: ông A có vợ là bà B, ông bà có hai người con chung là c, D. Năm 2017, ông A chết có để lại di chúc (hợp pháp), di sản của ông A là 700.000.000đ, trong đó ông để lại cho c và D mỗi người 350.000.000đ, không để lại cho bà B. Khi còn sống, ông A có vay khoản tiên là 50.000.000đ; Chi phí mai táng của ông A là 20.000.000đ.

Bà B khởi kiện yêu cầu được hưởng di sản thừa kế của ông A theo quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (Điều 644 BLDS năm 2015).

Trường hợp này cần phải xác định hai phần ba suất của một thừa kế theo pháp luật nếu di sản của ông A được chia theo pháp luật là: 700.000.000đ – (50.000.000đ + 20.000.000đ) = 630.000.000đ : 03 thừa kế theo pháp luật = 210.000.000đ.

Như vậy hai phần ba suất thừa kế theo pháp luật đối với di sản của ông A là hai phần ba của 210.000.ooođ.

Câu hỏi 23. Trường hợp di chúc bị vô hiệu một phần mà phần này chỉ liên quan đến di sản được hưởng của một thừa kế (chẳng hạn phần di chúc liên quan đến di sản đó bị vô hiệu do di sản không còn tồn tại) thì người thừa kế không được hưởng di sản do phần di chúc đối với họ vớ hiệu có được chia thừa kế theo pháp luật không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 643 BLDS năm 2015 về hiệu lực của di chúc thì: “3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực. 4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực”.

Như vậy, nêu một phần di sản thừa kế không còn tồn tại sau khi người lập di chúc chết, thì phần di chúc liên quan đến khối di sản không còn tồn tại đó bị vô hiệu, các phần khác của di chúc sẽ không bị vô hiệu nếu không bị ảnh hưởng bởi phần không hợp pháp. Trường hợp phần di sản không còn tồn tại chỉ liên quan đến nội dung di chúc để lại cho một trong các đồng thừa kế, thì người thừa kế được chỉ định hưởng khối di sản không còn tồn tại đó sẽ không được nhận di sản, nhưng các nội dung khác về việc phân chia di sản còn lại cho các đồng thừa kế khác vẫn có hiệu lực nên vẫn được nhận di sản theo đúng nội dung di chúc.

Điều này có thể dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trong việc thừa kế di sản của người chết giữa các đồng thừa kế, mặc dù ý chí của người chết thể hiện rõ trong di chúc là sẽ phân chia đều số di sản để lại cho các đóng thừa kế.

Tuy nhiên, đối với người được chỉ định thừa kế đối với phần di sản không còn tồn tại có thể xem xét yêu cầu chia một phần di sản theo

quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Điều 644 BLDS năm 2015 nếu đủ điều kiện luật định.

Câu hỏi 24. AvàB được thừa kế căn nhà và quyền sử dụng thửa đất do cha là ông c để lại. Năm 2017, Tòa án công nhận sự thỏa thuận của AdB về việc phân chia di sản, theo đó, B nhận 1/2 giá trị nhà đất, A nhận toàn bộ nhà đắt và đã làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Cuối năm 2017, A chuyển nhượng nhà đất này cho D. Sau khi D đã được đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, năm 2018, E là con riêng của ông c xuất trình di chúc hợp pháp, theo đó, ông c để lại toàn bộ nhà đất cho E. E khởi kiện tại Tòa án, yêu cầu được hưởng toàn bộ di sản theo đúng nội dung di chúc. Trường hợp này Tòa án phải giải quyết như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 642 BLDS năm 2015 về di chúc bị thất lạc, hư hại thì, “Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu”.

Do vậy, trường hợp này nếu di chúc là hợp pháp và còn trong thời hiệu yêu cầu chia di sản thì Tòa án sẽ phải chấp nhận yêu cầu khởi kiện của E xác định di chúc là hợp pháp và E được thừa kế toàn bộ di sản của ông c.

Tuy nhiên, do di sản thừa kế của ông c đã được phân chia theo quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Do vậy, trước khi giải quyết yêu cầu khởi kiện của E cần phải xem xét, giải quyết theo thủ tục tái thẩm đối với quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc phân chia di sản giữa A và B. Phải xác định di chúc do E xuất trình là tài liệu, chứng cứ có tình tiết mới quan trọng của vụ án mà

đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc phân chia di sản giữa A và B.

Do D nhận chuyển nhượng nhà đất từ A một cách hợp pháp, ngay tình được bảo vệ theo quy định tại khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 về người thứ ba ngay tình, nên hợp đồng chuyển nhượng nhà đất giữa A với D không bị vô hiệu. Do vậy, E chỉ có thể nhận lại là giá trị quyền sở hữu căn nhà và quyền sử dụng đất mà A đã chuyển nhượng cho D.

Câu hỏi 25. Trường hợp cụ A chết có để lại di chúc phân chia di sản cho các con và để lại di tặng. Khi phân chia di sản mới phát hiện có 02 người thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015. Phần di tặng có phải bỏ đi hay không?

Trả lời:

Pháp luật hiện hành quy định hai trường hợp thừa kế đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Đối với trường hợp thừa kế theo di chúc, về nguyên tắc, di sản phải được chia theo đúng ý chí của người để lại di sản thể hiện trong nội dung di chúc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, pháp luật cũng có những quy định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của những người có mối quan hệ ruột thịt, yếu thế với người để lại di chúc, cụ thể: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chổng; Con thành niên mà không có khả năng lao động. Những người này mặc dù không được chia di sản theo di chúc hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật thì vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật (Điều 644 BLDS năm 2015).

Ngoài việc lập di chúc để phân chia di sản, người để lại di sản cũng có thể lập di chúc để lại một phần di sản để tặng cho người khác, trường hợp này pháp luật dân sự gọi là di tặng. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này (khoản 3 Điều 646 BLDS năm 2015).

Như vậy, theo quy định nêu trên thì người được di tặng chỉ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

Trong khi đó, theo quy định tại Điều 658 BLDS năm 2015 thì khối tài sản mà người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc được hưởng không phải là nghĩa vụ tài sản.

Mặt khác, theo quy định tại Điều 646 BLDS năm 2015 thì di tặng là một phần nội dung của di chúc. Tức là nội dung này sẽ bị tác động bởi quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định tại Điều 644 BLDS năm 2015.

Do vậy, trong trường hợp người chết lập di chúc để phân chia di sản và di tặng một phần di sản mà không chia thừa kế cho 02 người thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, thì hai người này vẫn phải được xem xét để chia di sản và phần di sản để chia cho hai người này sẽ lấy từ khối di sản chung, trước khi chia thừa kế theo di chúc và di tặng. Trường hợp di sản đã được chia theo di chúc và di tặng, thì những người được chia di chúc và di tặng phải hoàn lại phần di sản tương ứng đề chia cho 02 người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Câu hỏi 26. Khoản 1 Điều 59 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đểu vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ”. Vậy trong trường hợp người được giám hộ lập di chúc cho toàn bộ tài sản người giám hộ, có chứng thực và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ thì có được coi là di chúc hợp pháp không?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 46 BLDS năm 2015 quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhãn được luật quy định, được ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ)”.

Tại Điều 625 BLDS năm 2015 quy định về người lập di chúc như sau:

“1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

  1. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”.

Các khoản 1,2, 3 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định:

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

  1. a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
  2. b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
  3. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
  4. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”.

Đối chiếu với các quy định nêu trên thị trường hợp người được giám hộ lập di chúc cho toàn bộ tài sản của người giám hộ, có chứng thực và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ thì di chúc đó được coi là hợp pháp nếu thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 630 BLDS năm 2015. Vấn đề giám hộ được đặt ra đối với người được giám hộ là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Do vậy, người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc thành văn bản cho người giám hộ, có sự đồng ý của người giám hộ về việc lập di chúc (không phải người giám sát việc giám hộ) và thỏa mãn điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 thì di chúc đó hợp pháp.

Đối với người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì không thể tự mình thể hiện ý chí định đoạt tài sản của mình nên không thể lập di chúc cho người giám hộ.

Câu hỏi 27. Vợ hoặc chồng lập di chúc để lại toàn bộ di sản của mình cho người khác (không phải chồng hoặc vợ của mình) thì di chúc có hợp pháp không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 625 BLDS năm 2015, người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.

Tuy nhiên, Điều 644 BLDS năm 2015 (Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc) quy định như sau:

  1. . Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
  2. a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vơ, chổnợ;
  3. b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
  4. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”

Đối với di chúc trong câu hỏi, trong thực tế có quan điểm cho rằng, di chúc này đủ điều kiện hợp pháp theo Điều 630 BLDS năm 2015 (Di chúc hợp pháp). Việc xác định di chúc hợp pháp không làm mất quyền của những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Cũng có quan điểm cho rằng, di chúc này hợp pháp nhưng không có hiệu lực một phần, là phần phải dành cho người thừa kế bắt buộc. Thực tiễn xét xử xác định là di chúc không có hiệu lực một phần vì phải đến thời điểm mở thừa kế thì mới xác định được có những ai là thừa kế bắt buộc. Vì vậy, không thể xác định là di chúc không hợp pháp.

Câu hỏi 28. Người quản lý di sản thừa kế (quy định tại Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015) có được thanh toán công sức quản lý di sản hay không? Căn cứ để Tòa án xác định công sức của người quản lý di sản?

Trả lời:

Cần phân biệt người quản lý di sản quy định tại Điều 616 BLDS năm 2015 nêu trên với người đang quản lý di sản hoặc người đã có thời gian quản lý di sản.

–  Khoản 2 Điều 616 BLDS năm 2015 quy định:

–  2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cữ được người quản lý di sản. ”

–  Đồng thời, các khoản 1,2 Điều 618 BLDS năm 2015 cũng quy định:

–  1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có quyển sau đấy:

  1. a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;
  2. b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
  3. c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
  4. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật này có quyền sau đây:
  5. a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
  6. b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
  7. c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.”

Trong thực tiễn, khi giải quyết các vụ án dân sự thì yêu cầu về tính công sức của một trong các bên đương sự là yêu cầu thường được đặt ra.

Pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể về việc tính công sức cho người quản lý di sản. Tuy nhiên, việc tính công sức quản lý di sản cho người quản lý di sản đó là cần thiết.

Có thể thấy, công sức bao gồm nhiều loại như: 1) Công sức tạo lập tài sản, phát triển tài sản; 2) Công sức giữ gìn tài sản; 3) Công sức bảo quản tài sản; 4) Công sức tôn tạo tài sản; 5) Công sức làm tăng giá trị của tài sản…

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS năm 2015 thì: “ỉ. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.

Tuy nhiên, riêng vụ án chia thừa kế thì không cần có yêu cầu riêng về công sức quản lý di sản, họ yêu cầu được chia phần nhiều hơn các thừa kế khác hoặc cho rằng tài sản mình đang quản lý là của mình thì cũng coi là họ có yêu cầu về công sức quản lý.

Thực tiễn xét xử thường tính công sức cho người trực tiếp quản lý di sản với thời gian dài một khoản đền bù tương ứng với một kỷ phần thừa kế trong vụ án đó.

TANDTC đã ban hành Án lệ số 05/2016/AL (được thông qua ngày 06/4/2016) có nội dung về việc tính công sức của người quản lý tài sản là di sản thừa kế. Khi giải quyết vụ việc tranh chấp thừa kế cần áp dụng hoặc vận dụng án lệ nêu trên để xem xét công sức của người quản lý di sản thừa kế nếu có.

Lưu ý: Công sức quản lý di sản khác với chi phí bảo quản di sản, thù lao do quản lý di sản.

Câu hỏi 29. Người viết hộ di chúc có được làm chứng việc lập di chúc không?

Trả lời:

Di chúc viết hộ được quy định tại Điều 634 BLDS năm 2015 như sau:

“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.”

Người làm chứng cho việc lập di chúc được quy định tại Điều 632 BLDS 2015 như sau:

“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
  2. Người có quyển, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
  3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”

Do vậy, người viết hộ di chúc thuộc trường hợp không được làm chứng cho việc lập di chúc theo quy định tại Điều 632 BLDS năm 2015 thì không được làm chứng. Còn người viết hộ di chúc đủ điều kiện là người làm chứng thì họ được làm chứng cho việc lập di chúc.

Nhìn chung, cơ chế “người làm chứng” được quy định trong nhiều mối quan hệ pháp luật, nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, và chủ yếu liên quan đến hoạt động tố tụng như BLTTDS năm 2015 (các điều 77,78); Luật Hộ tịch năm 2014 (Điều 16); Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (Điều 62). Ở mỗi mối quan hệ (như thừa kế), cơ chế “người làm chứng” lại có những nét riêng.

Câu hỏi 30. Di chúc lập từ năm 1973 nhưng đến năm 1992 người lập di chúc mới chết thì việc đánh giá hiệu lực của di chúc như thế nào? Việc chuyển giao tài sản, thay đổi về quản lý tài sản khi người để lại di chúc còn sống mà không có ý kiến có được coi là người để lại di chúc đồng ý hay không?

Trả lời:

Ví dụ: Cố Đ có 07 người con, trong đó có cụ T (chết năm 1951, có 02 con, trong đó có bà TH), cụ N (có 13 người con, trong đó có ông G). Ngày 06/12/1973, cố Đ lập di chúc, trong di chúc có nội dung giao nhà đất tại ấp Phú Ân Nam cho cụ N để thờ cúng sau khi cố Đ chết. Thực tế, nhà và đất (theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay là 2.115 m[3]) đã được giao ngay cho cụ N còn cố Đ đi ở nơi khác. Ngày 28/10/1989, cụ N lập di chúc giao nhà đất nêu trên cho con là ông G quản lý. Năm 1990, cụ N chết. Năm 1992, cố Đ chết. Ngày 16/10/1995, bà TH và các đồng nguyên đơn khởi kiện chia thừa kế.

Có ý kiến cho rằng không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn vì diện tích đất đã được giao cho gia đình bị đơn sử dụng từ năm 1973 theo đúng di chúc của cố Đ.

Thực tiễn xét xử giám đốc thấm xác định[4]:

Việc chuyển giao nhà đất của cụ N cho ông G là không hợp pháp. Di chúc của cố Đ chỉ có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế của cố Đ (năm 1992) nên năm 1989, cụ N không có quyền lập di chúc về tài sản chưa thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của cụ N. Cũng do người chỉ định để hưởng di sản đã chết trước thời điểm di chúc có hiệu lực (cụ N chết trước cụ Đ) nên phần di chúc của cụ Đ cho cụ N cũng

không có hiệu lực. Và do vậy, phần nhà đất do cụ Đ tạo lập nêu ở trên vẫn là di sản của cụ Đ được chia thừa kế theo pháp luật.

Như vậy, di chúc được lập trước khi có Pháp lệnh Thừa kế (có hiệu lực thi hành từ ngày 10/9/1990 đến ngày 31/6/1996) nhưng thời điểm mở thừa kế là thời điểm thi hành Pháp lệnh Thừa kế thì vẫn xác định hiệu lực di chúc theo quy định của Pháp lệnh Thừa kế là: Di chúc chỉ có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế; nếu người hưởng thừa kế theo di chúc chết trước thời điểm di chúc có hiệu lực thì phần di chúc với người chết trước vô hiệu. Trong thời gian di chúc chưa có hiệu lực, việc thay đổi người quản lý tài sản khi người lập di chúc biết mà không có ý kiến cũng không thể coi là họ đã thay đổi di chúc.

Câu hỏi 31. Di chúc của một người định đoạt cả tài sản chung vỢ chồng có hợp pháp hay hợp pháp một phần ?

Trả lời:

Việc người vợ (hoặc chồng) định đoạt tài sản chung của vợ chóng trước khi chết là hiện tượng tương đối phổ biến trước năm 2000 theo truyền thống văn hóa, trình độ hiểu biết pháp luật. BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 đều có quy định về di chúc chung của vợ chồng để định đoạt tài sản chung (Điều 666 BLDS năm 1995, Điều 663 BLDS năm 2005). BLDS năm 2015 không quy định về di chúc chung vợ chồng (tham khảo Câu hỏi 20).

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 609 BLDS năm 2015: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”; Điều 612 BLDS năm 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

theo các quy định trong thì người để lại di sản chỉ có thể định đoạt tài sản của mình. Khi một người chết thì phần tài sản của họ được xác định trong khối tài sản chung. Khoản 1 Điều 213 BLDS năm 2015 quy định: “Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia”. Do vậy, di chúc của một người định đoạt cả tài sản chung vợ chồng có giá trị đổi với phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung của vợ chồng. Để xác định di chúc của một người định đoạt là tài sản chung vợ chồng có hợp pháp một phần hay không thì phải căn cứ các quy định khác để xác định di chúc hợp pháp tại thời điểm lập di chúc. Ví dụ: Điều 655 BLDS năm 1995, Điều 652 BLDS năm 2005, Điều 630 BLDS năm 2015.

Câu hỏi 32. Di chúc của một người định đoạt cả tài sản chung với người khác (không phải là vợ hoặc chồng) có hợp pháp hay hợp pháp một phần?

Trả lời:

Trường hợp này khác với trường hợp tại Câu hỏi 31 về định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Đây là trường hợp một người cùng sở hữu chung với người khác (không phải là vợ hoặc chồng), khi chết người này lập di chúc định đoạt cả tài sản của người khác trong khối tài sản thuộc sở hữu chung. Ví dụ Một người chỉ sở hữu 1/3 căn nhà nhưng người đó người lập di chúc định đoạt 1/2 căn nhà cho người khác.

Về nguyên tắc thì một người được định đoạt phần tài sản của mình trong khối tài sản chung nếu phần tài sản đó được xác định trong khối tài sản chung. Tuy nhiên, BLDS quy định sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất (khoản 2 Điều 207 BLHS năm 2015). Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia (khoản 1 Điều 210 BLTTDS năm 2015). Việc định đoạt tài sản chung được quy định tại Điều 218 BLDS năm 2015 như sau:

“I. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình.

  1. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.
  2. Trường hợp một chủ sở hữu chung theo phần bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua.

Trong thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung.

Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.

  1. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với bất động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại.
  2. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
  3. Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật này”.

Như vậy, theo các quy định nêu trên thì di chúc của một người định đoạt cả tài sản chung với người khác (không phải là vợ hoặc chồng) chỉ hợp pháp đối với phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung.

Ví dụ: Di chúc về tài sản chung với một người khác (không phải vợ hoặc chống) định đoạt tới 2/3 tài sản trong khi chỉ có quyền với 1/2 tài sản thì chỉ có hiệu lực với 1/2 tài sản đó.

Câu hỏi 33. Văn bản không có tiêu đẽ di chúc nhưng có nội dung định đoạt tài sản của mình sau khi chết có được coi là di chúc hợp pháp không?

Trà lời:

Thực tiễn cho thấy, văn bản giao dịch không có tiêu đề đúng với nội dung giao dịch diễn ra khá phổ biến. Tuy nhiên, nội dung các văn bản đó có chứa đựng các sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối cá nhân, tổ chức. Pháp luật đã có quy định về khái niệm của giao dịch dân sự để lý giải vấn đề trên.

Điều 649 BLDS năm 1995, Điều 646 BLDS năm 2005, Điều 624 BLDS năm 2015 đễu quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo quy định này thì vàn bản có nội dung chuyển dịch tài sản sau khi chết là di chúc, không phụ thuộc vào tiêu đề của văn bản.

Lưu ý: Phân biệt di chúc và hợp đồng tặng cho tài sản.

Điều 457 BLDS năm 2015 quy định: HỢp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bèn được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận”.

– Giống nhau: Đều là quyền quyết định, định đoạt về tài sản của người có tài sản, là sự chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của người này sang cho người khác.

– Khác nhau: Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí giữa người cho và người được tặng nói chung là ý chí của song phương, họ phải còn sống tại thời điểm cho nhận tài sản. Di chúc chỉ phát sinh trên cơ sở ý chí định đoạt đơn phương (hành vi pháp lý đơn phương) của người lập di chúc và đặc biệt là người được di chúc chỉ được nhận tài sản khi người lập di chúc chết, nếu còn sống thì vẫn chưa được nhận.

Câu hỏi 34. Yêu cầu hủy di chúc có công chứng là tranh chấp thừa kế hay tranh chấp về yêu cầu hủy văn bản công chứng vô hiệu?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 635 BLDS năm 2015 thì người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng bản di chúc. Các quy định khác như: Thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng (Điêu 636); Người không được công chứng di chúc (Điều 637); Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng (Điều 638); và Di chúc do công chứng viên lập tại chỗ ở (Điêu 639) BLDS năm 2015.

Yêu cầu hủy di chúc có công chứng bao gồm hủy cả lời chứng và xem xét nội dung của di chúc nên yêu cầu này bao gồm cả tranh chấp thừa kế (nội dung di chúc) và yêu cầu hủy văn bản công chứng vô hiệu.

– Phạm vi giải quyết trong vụ án:

Khoản 4 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của Luật này”. Quy định này cho thấy văn bản công chứng không phải chỉ là lời chứng mà bao gồm cả hợp đồng, giao dịch và lời chứng về hợp đồng, giao dịch ấy.

Do vậy, khi có yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì phải hiểu yêu cầu đó bao gồm cả yêu cầu xem xét, phán quyết về lời

chứng của công chứng viên và xem xét, phán quyết về nội dung giao dịch, hợp đồng. Người khởi kiện có thể chì nêu vi phạm của giao dịch, hợp đồng, hoặc chỉ nêu vi phạm của thủ tục công chứng thì phạm vi xem xét vấn phải là toàn bộ văn bản công chứng. Người khởi kiện có thể sử dụng không đúng thuật ngữ pháp lý như yêu cầu “hủy công chứng vô hiệu” nhưng nếu nội dung yêu cầu xác định đó là một văn bản không có hiệu lực thì vẫn là yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, thuộc loại tranh chấp quy định tại khoản 11 Điều 26 BLTTDS năm 2015.

– Xác định đương sự trong vụ án:

Trong vụ án tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, người có quyền khởi kiện được quy định rộng hơn nhiều so với các tranh chấp dân sự khác. Theo quy định tại Điều 52 Luật Công chứng năm 2014 thì: “Công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật”.

Những người quy định tại Điều 52 nêu trên đều có thể là nguyên đơn trong vụ án tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Tổ chức hành nghề công chứng (Phòng công chứng, Văn phòng công chứng) không được nêu trong Điều 52 thì họ có thể là nguyên đơn hay không? Khoản 1 Điều 38 Luật Công chứng năm 2014 quy định về trách nhiệm bồi thường là: “1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình dài ra trong quá trình công chứng”. Như vậy, trách nhiệm bồi thường là của pháp nhân. Do đó, pháp nhân có trách nhiệm bồi thường cũng phải có quyền yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu để ngăn chặn thiệt hại có thể tiếp

tục xảy ra. Xác định tổ chức hành nghề công chứng có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu không trái với Điều 52 nêu trên; đây là trường hợp “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” được quy định tại Điều 52.

Theo quy định của khoản 3 Điều 68 BLTTDS năm 2015 thì bị đơn đã được nguyên đơn xác định từ việc khởi kiện. Tuy nhiên, việc xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án tranh chấp liên quan đến tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu có đặc biệt hơn so với các vụ án dân sự thông thường.

Khoản 2 Điều 38 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gày thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy, trách nhiệm dân sự hoàn trả cụ thể của công chứng viên, nhân viên, người phiên dịch không được giải quyết ngay trong vụ án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu nhưng đã có thể phát sinh từ việc giải quyết vụ án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Do đó, dù tổ chức hành nghề’ công chứng đã tham gia tố tụng với tư cách đương sự thì vẫn phải đưa công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch bị cho rằng có vi phạm gây ra thiệt hại tham gia tố tụng với tư cách đương sự (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) chứ không phải chỉ là nhân chứng[5].

Câu hỏi 35. Yêu cầu hủy di chúc có chứng thực của ủy ban nhân dân là vụ án dân sự tranh chấp thừa kế hay vụ án hành chính?.

Trả lời:

Các quy định về di chúc có chứng thực của UBND được quy định tương tự di chúc có công chứng được nêu tại Câu hỏi 34 nêu trên. Tuy nhiên, khác với yêu cầu hủy di chúc có công chứng. Yêu cầu hủy di chúc có chứng thực của UBND là vụ án hành chính.

Bởi vì, văn bản chứng thực không phải là văn bản công chứng nên yêu cầu hủy văn bản chứng thực văn là khiếu kiện hành chính (Điều 69 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về Công chứng, chứng thực)[6].

Văn bản chứng thực không phải là quyết định hành chính, không phải một quyết định cá biệt làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của một tổ chức, cá nhân mà chỉ là hành vi chứng nhận một sự kiện pháp lý. Vì vậy, khởi kiện yêu cầu hủy văn bản chứng thực là khởi kiện hành chính đối với hành vi hành chính. Khởi kiện hành chính yêu cầu hủy văn bản chứng thực chính là khởi kiện yêu cầu xác định hành vi chứng thực là không đúng pháp luật hoặc là khởi kiện yêu cầu thực hiện hành vi hủy bỏ văn bản chứng thực. Việc giải quyết yêu cầu hủy văn bản chứng thực theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.

Người khởi kiện có thể lựa chọn khởi kiện hành chính hoặc khởi kiện dân sự về hợp đồng, giao dịch. Nếu khởi kiện hành chính, có thể đồng thời yêu cầu cơ quan hành chính bồi thường thiệt hại nhưng không thể yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng, giao dịch (kể cả yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu) trong vụ án hành chính.

Nếu lựa chọn khởi kiện dân sự, văn bản chứng thực không phải là quyết định hành chính cá biệt nên khi giải quyết các vụ việc dân sự có văn bản chứng thực (như tranh chấp một hợp đồng mà văn bản hợp đồng có chứng thực của UBND) thì Tòa án không bắt buộc phải hủy văn bản chứng thực, không phải đưa cơ quan chứng thực vào tham gia tố tụng.

Lưu ý: Tranh chấp thừa kế có di chúc được chứng thực thì vẫn là vụ án dân sự.

Câu hỏi 36. Quân nhân tại ngũ lập di chúc có xác nhận của đại đội trường có hợp pháp không?

Trả lời:

Căn cứ để xác định di chúc hợp pháp hay không là Điều 630 BLDS năm 2015:

  1. u Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
  2. a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
  3. b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
  4. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
  5. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
  6. Di chúc bằng văn bản không có công chứng chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
  7. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng”

Vì vậy, trường hợp di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của đại đội trường đáp ứng các quy định tại Điều 630 BLDS năm 2015 nêu trên thì di chúc đó là di chúc hợp pháp.

Lưu ý, theo khoản 1 Điều 638 BLDS năm 2015, di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nêu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực có giá trị như di chúc bằng văn bản được công chứng, chứng thực. Vì vậy, trường hợp di chúc của quân nhân tại ngũ bắt buộc phải được công chứng chứng thực (ví dụ khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015) thì chỉ cần di chúc này có xác nhận của thủ trưởng đơn vị theo quy định tại khoản 1 Điều 638 BLDS năm 2015 nêu trên là đã coi như được công chứng, chứng thực.

Câu hỏi 37. Người gốc Việt ở nước ngoài lập di chúc có chứng nhận của cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó có hợp pháp không?

Trả lời:

Tương tự như Câu hỏi 36, việc xác định di chúc hợp pháp cần căn cứ theo quy định của Điều 630 BLDS năm 2015.

Lưu ý, theo quy định tại khoản 5 Điều 638 BLDS năm 2015 thì di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó được coi là di

chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực. Vì vậy, đối với các trường hợp di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài bắt buộc phải được công chứng, chứng thực (như khoản 3 Điều 630 BLDS năm 2015) thì chỉ cần có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó là di chúc được coi là đã công chứng, chứng thực.

Tuy nhiên, quy định tại khoản 5 Điều 638 BLDS năm 2015 nêu trên chỉ áp dụng với công dân Việt Nam.

Với người nước ngoài gốc Việt (không phải công dân Việt Nam), họ phải xin chứng thực của nước mà họ là công dân, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam sẽ làm thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự để giấy tờ được sử dụng tại Việt Nam.

Câu hỏi 38. Ông A đi du lịch cùng ông B và ông c. Ông A bị tai nạn, có nguy cơ đe dọa đến tính mạng. Ông A có lởi dặn với ông B và ông c là nếu ông chết thì tòa n bộ di sản để cho bà Y được hưởng. Ổng B và ông c đã ghi chép lại và 04 ngày sau đã xin chứng nhận chữ ký tại ủy ban nhân dân; 05 tháng sau, ông A chết. Trường hợp này có được coi là di chúc miệng hợp pháp không?

Trả lời:

Khoản 5 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định: aDi chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng’.

Tuy nhiên, 05 tháng sau, ông A chết nên di chúc trên không hợp pháp, mặc nhiên bị hủy bỏ theo quy định tại khoản 2 Điều 629 BLDS năm 2015.

Lưu ý: Tiêu chí sức khỏe là minh mẫn, sáng suốt chứ không phải là khỏe mạnh về thể lực, không phải là không có bệnh nặng.

Câu hỏi 39. Ổng B tự viết di chúc và ký tên. Sau đó, ông B nhở ông c đi công chứng bản di chúc mà ông đã viết. Do có quen biết người làm ở tổ chức hành nghề công chứng, ông c đã xin công chứng được bản di chúc và giao lại cho ông c. Bản di chúc này có hợp pháp không?

Trả lời:

Di chúc do ông B tự viết, ký tên và tuân theo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015 thì di chúc đó đã hợp pháp theo quy định tại Điều 633 BLDS năm 2015. Di chúc của ông B trong trường hợp này không cần thiết phải công chứng.

Việc ông B nhờ ông c đi công chứng bản di chúc là không đúng thủ tục, quy định về di chúc có công chứng.

Như vậy, mặc dù văn bản công chứng không hợp pháp nhưng nội dung di chúc do ông B tự viết, ký tên và tuân theo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015 vẫn hợp pháp nên di chúc vẫn được coi là hợp pháp.

Câu hỏi 40. Cụ K có các con đều còn sống là ông M, ông N, ông L. Cụ K biết chữ nhưng do sức khỏe yếu, viết không được rõ ràng nên nhở anh G (là con ông M) viết hộ di chúc và làm chứng về di chúc cùng với ông H (là hàng xóm của cụ K). Di chúc này có hợp pháp không? X

Trả lời:

Điều 634 BLDS năm 2015 quy định về di chúc bằng văn bản có

người làm chứng: “Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này”.

Di chúc của cụ K có hai người làm chứng là anh G (cháu ruột cụ K) và ông H (hàng xóm). Theo quy định tại khoản 1 Điều 632 BLDS năm 2015 thì ông H đủ điều kiện là người làm chứng còn anh G không đủ điều kiện là người làm chứng cho di chúc của cụ K. Bởi vì, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 thì anh G là người thừa kế theo pháp luật của cụ K (hàng thừa kế thứ hai) nên không được làm chứng cho di chúc của cụ K theo quy định của pháp luật.

Có quan điểm cho rằng, người thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 632 BLDS năm 2015 là người thừa kế thực tế (hàng thứ nhất hoặc hàng thứ hai nếu khi lập di chúc đã không còn hàng thứ nhất). Tuy nhiên, theo lời văn thì “người thừa kế’ theo quy định trên không phân biệt là người thuộc hàng thừa kế nào. Khoản 1 Điều 632 BLDS năm 2015 chỉ quy định: “Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc”.

  1. VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Câu hỏi 41. Sau khi người đang quản lý quyền sử dụng đất (của người đã ra nước ngoài, không rõ địa chỉ) chết thì diện tích đất trên bị người khác chiếm dụng. Những người thừa kế của người quản lý tài sản có được kiện đòi lại đất không? Trong số những người thừa kế có người khởi kiện, có người không khởi kiện, phải xử lý như thế nào?

Trả lời:

Trong vụ án thừa kế, phần thừa kế (tài sản) của người đã ra nước ngoài, không rõ địa chỉ sẽ tạm giao cho những người đang sống trong nước quản lý để sau này người thừa kế của họ có quyền hưởng theo pháp luật (Án lệ số 06/2016/AL). Theo quy định tại Điều 165 BLDS năm 2015 thì người quản lý phần thừa kế của người đã ra nước ngoài trên là người chiếm hữu có căn cứ pháp luật. Người quản lý phần thừa kế của người đã ra nước ngoài nêu trên có các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản này (quyền quản lý tài sản – nghĩa vụ quản lý tài sản) như: Án phí đối với phần thừa kế được hưởng, thu hoa lợi… Một trong các quyển đó là quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật (khoản 1 Điều 166 BLDS năm 2015).

Đối chiếu với quy định tại Điều 115 BLDS năm 2015 thì quyền quản lý quyền sử dụng đất (của người đã ra nước ngoài, không rõ địa chỉ) là quyền tài sản. Do vậy, quyền quản lý quyền sử dụng đất cũng

là một loại di sản của người chết để lại nhưng với mục đích để sau này người thừa kế của người đã ra nước ngoài có quyền hưởng theo pháp luật.

Vì vậy, những người thừa kế của người quản lý tài sản vẫn có quyền kiện đòi lại đất do người khác chiếm dụng không có căn cứ pháp luật.

Lưu ý:

– Việc xác định người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không còn phải căn cứ theo quy định của pháp luật về quyền khởi kiện; Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của HĐTP TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS năm 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyển nộp đơn kiện lại vụ án.

– Trong số những người thừa kế có người khởi kiện, có người không khởi kiện thì những thừa kế không khởi kiện là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Câu hỏi 42. Khi có khởi kiện đòi lại tài sản mà người quản lý tài sản đã chết, không có người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hay đưa người thuộc hàng thừa kế thứ hai vào tham gia tố tụng, kế thừa quyển, nghĩa vụ của người chết để tiếp tục giải quyết vụ án?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 74 BLTTDS năm 2015 quy định về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng: “Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyển, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng”.

Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án người quản lý tài sản chết thì trước hết phải xác định quyền, nghĩa vụ về tài sản của người

đó có được thừa kế hay không để tiếp tục giải quyết vụ án (đưa người thừa kế tham gia tố tụng) hay đình chỉ giải quyết vụ án.

– Quyền, nghĩa vụ của người quản lý tài sản không được thừa kế (quản lý tài sản theo ủy quyền) thì không có việc thừa kế quyên, nghĩa vụ tài sản (khoản 3 Điều 140 BLDS năm 2015) nên không có người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm a khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015.

– Quyền, nghĩa vụ của người quản lý tài sản được thừa kế (quản lý tài sản của người đã ra nước ngoài, quản lý tài sản chung…) thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án và đưa người thừa kế tham gia tố tụng với tư cách người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng (nếu chưa xác định được người thừa kế thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án).

Trong trường hợp này, nếu quyển, nghĩa vụ của người quản lý tài sản được thừa kế thì người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng là “người thừa kế’ chứ không phải chỉ là hàng thừa kế thứ nhất. Bởi vì, người thừa kế còn có thể là người được thừa kế theo di chúc. Thực tiễn xét xử cho thây, để đảm bảo vụ án được xét xử tòa n diện, triệt để thì trong trường hợp này đưa tất cả những người có thể hưởng thừa kế vào tham gia tố tụng bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật.

Lưu ý: Phân biệt kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng với thừa kế tài sản:

–  Kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng là việc quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự được chủ thể kế thừa tiếp nối và thực hiện, người kế thừa tố tụng đó không nhân danh chính mình mà nhân danh đương sự đã chết (cá nhân) hoặc đương sự đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể (cơ quan, tổ chức).

– Thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản. Thừa kế được thực hiện theo pháp luật và theo di chúc.

Thừa kế theo di chúc là việc chuyển dịch tài sản thừa kế của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt (di chúc) của người đó khi còn sống.

Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Câu hỏi 43. Trong vụ án yêu cầu chia di sản thừa kế, nguyên đơn yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế là mảnh đất A và B. Bị đơn có ý kiến di sản còn có mảnh đất c. Tòa án có xem xét mảnh đắt c là di sản thừa kế không hay buộc bị đơn phải có yêu cầu phản tố mới xem xét mảnh đắt c để giải quyết trong vụ án?

Trả lời:

Có quan điểm cho rằng đã có yêu cầu chia thừa kế thì nêu thêm tài sản không phải là phản tố. Quan điểm này không đúng. Bởi vì, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó (khoản 1 Điều 5 BLTTDS năm 2015). Nếu đương sự chỉ nêu thêm tài sản là di sản thừa kế mà không có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật thì đó chỉ là ý kiến của đương sự, có thể là căn cứ để giải quyết vụ án.

Trong trường hợp này, bị đơn có đơn theo đúng quy định của pháp luật xác định di sản còn có mảnh đất c là yêu cẩu không nằm trong phạm vi khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án phải xác định đây là yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập.

Trường hợp 1: Xác định yêu cầu của bị đơn là yêu cầu phản tố khi bị đơn thực hiện quyền phản tố của bị đơn tuân thủ hình thức như

khởi kiện của một vụ án. Khi được chấp nhận phản tố có nghĩa là có thêm một vụ án thứ hai được giải quyết đóng thời với vụ án đang giải quyết. Trong trường hợp không có phản tố thì khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện, Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án. Còn trong trường hợp có phản tố thì vai trò của các bên sẽ thay đổi, bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn và ngược lại, nguyên đơn lại trở thành bị đơn, vụ án thứ hai vẫn tiếp tục được giải quyết, chỉ có vụ án thứ nhất có quyết định đình chỉ việc giải quyết.

Về mặt nội dung: Yêu cầu phản tố chỉ được chấp nhận khi thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 200 BLTTDS năm 2015:

  1. a) ) Yêu cầu phản tố đê bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
  2. b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
  3. c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn”.

Do vậy, khi bị đơn đang quản lý mảnh đất c thì Tòa án buộc bị đơn phải có yêu cầu phản tố thì mới xem xét mảnh đất c là di sản thừa kế để giải quyết trong vụ án.

– Trường hợp 2: Xác định yêu cầu của bị đơn là yêu cầu độc lập.

BLTTDS năm 2015 có quy định mới tại khoản 5, khoản 6 Điều 72 quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đây cũng là một tranh chấp khác với tranh chấp mà nguyên đơn khởi kiện nhưng không phải là yêu cầu của bị đơn với

nguyên đơn nên không gọi là phản tố. Bị đơn cũng có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn đối với yêu cầu độc lập. Trường hợp yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án thì bị đơn có quyền khởi kiện vụ án khác.

Do vậy, khi người khác (không phải là nguyên đơn hay bị đơn) đang quản lý mảnh đất c, bị đơn có yêu cầu di sản còn có mảnh đất c, thì Tòa án quyết định đây là yêu cầu độc lập của bị đơn và xem xét mảnh đất c là di sản thừa kế để giải quyết trong vụ án hoặc không chấp nhận yêu cầu bị đơn, hướng dẫn bị đơn khởi kiện bằng một vụ án khác.

Câu hỏi 44. Bà A khởi kiện chia thừa kế của chồng. Các con bà A cũng có yêu cầu độc lập yêu cầu chia di sản thừa kế. Vụ án đã thụ lý, đang trong quá trình giải quyết thì bà A chết. Trường hợp này có thay đổi tư cách tố tụng của người có yêu cầu độc lập không hay phải hướng dẫn học rút yêu cầu độc lập và khởi kiện thành vụ án mới. Nếu họ không rút đơn yêu cầu độc lập thì xử lý như thế nào?

Trả lời:

Tư cách đương sự được xác định tại thời điểm thụ lý. Khi vụ án đã thụ lý, đang trong quá trình giải quyết thì bà A chết. Trong trường hợp này, quyền, nghĩa vụ của bà A được thừa kế nên Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án và đưa người thừa kế tham gia tố tụng với tư cách người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 74 BLTTDS năm 2015 (nếu chưa xác định được người thừa kế thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án). Thực tiễn xét xử cho thấy, để đảm bảo vụ án được xét xử tòa n diện, triệt để thì trong trường hợp này đưa tất cả những người có thể hưởng thừa kế vào tham gia tố tụng bao gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật (tham khảo Câu hỏi 42).

Bà A khởi kiện chia thừa kế của chồng nên yêu cầu chia thừa kế của các con không phải là yêu cầu độc lập. Các con của bà A là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà A, đồng thời cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng vẽ phía nguyên đơn (hai tư cách đương sự).

Lưu ý:

– Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà A không chỉ bao gồm các con của bà A mà còn có thể có người khác là người thừa kế của bà A (người thừa kế theo di chúc…).

– Thực tiễn xét xử thì không đưa bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn. Vì họ thường có quyền lợi, nghĩa vụ đối lập nhau trong vụ án.

Câu hỏi 45. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản của người chết mà người thừa kế đã nhận có được tính để yêu cậu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại hay không?

Trả lời:

Theo quy định của pháp luật dân sự (Điều 109 BLDS năm 2015) thì: Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại. Ví dụ: con bò con được sinh ra từ con bò mẹ; số lượng trái cây thu được từ vườn cây.

Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản. Ví dụ: số tiền nhận được từ việc cho thuê căn hộ. Tiền lãi của sổ tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng.

Điều 612 BLDS năm 2015 quy định, di sản của người chết bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

Về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, Điều 615 BLDS năm 2015 quy định: “1. Những người hưng thừa kế có trách nhiệm

thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại. 3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Với các quy định nêu trên, có hai câu hỏi được đặt ra: Thứ nhất, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ khối di sản trước khi chia có thuộc di sản thừa kế không? Thứ hai, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản sau khi chia thừa kế có dùng để thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại hay không?

– Về câu hỏi thứ nhất, theo quy định tại Điều 224 BLDS năm 2015 về xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức thì, “Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó”.

Điều 257 BLDS năm 2015 quy định về quyền hưởng dụng như sau, “Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời hạn nhất định”.

Về căn cứ xác lập quyền hưởng dụng, “Quyền hưởng dụng được xác lập theo quy định của luật, theo thỏa thuận hoặc theo di chúc” (Điều 258 BLDS năm 2015).

Căn cứ vào các quy định nêu trên thì về nguyên tắc, hoa lợi, lợi tức mà người quản lý di sản hợp pháp (theo di chúc, theo thỏa thuận của những người đồng thừa kế hoặc theo quy định của pháp luật) được quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ khối di sản. Do vậy, giá trị hoa lợi, lợi tức không phải là di sản thừa kế do người chết để lại, nên không bị xem xét để thực hiện nghĩa vụ tài sản của

người chết để lại. Tuy nhiên, trường hợp trong di chúc có nêu rõ hoặc giữa các đóng thừa kế có thỏa thuận về việc phân chia hoa lợi, lợi tức hoặc nhập hoa lợi, lợi tức vào khối di sản thì thực hiện theo nội dung di chúc hoặc theo sự thỏa thuận của các đồng thừa kế.

– Về câu hỏi thứ hai, nếu người thừa kế sau khi được phân chia di sản một cách hợp pháp thì họ có quyền sở hữu đối với di sản được chia và có quyền khai thác công dụng từ khối di sản được chia, nên được hưởng (xác lập quyền sở hữu) đối với hoa lợi, lợi tức.

Mặt khác, BLDS chỉ quy định phần di sản thừa kế đà chia ở thời điểm chia thừa kế mà không quy định việc phát sinh hoa lợi, lợi tức từ di sản thừa kế mà người thừa kế đã nhận. Do vậy, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần di sản được chia không phải tính để thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Câu hỏi 46. Người bảo lãnh bảo đảm đối với khoản tiền vay của người khác chết thì những người thừa kế của người bảo lãnh có phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh hay không?

Trả lời:

Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ (khoản 1 Điều 335 BLDS năm 2015).

Với quy định nêu trên, chúng ta có thể thấy, nghĩa vụ bảo lãnh là nghĩa vụ tài sản của người bảo lãnh.

Điều 615 BLDS năm 2015 về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại quy định:

  1. . Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
  3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhàn.”

Như vậy, trường hợp khi còn sống, người để lại di sản thừa kế có cam kết bảo lãnh, bảo đảm cho khoản tiền vay của người khác tại tổ chức tín dụng, sau đó bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ, nên phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh thì những người thừa kế của người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong phạm vi tài sản do người chết để lại (trừ trường hợp có thỏa thuận khác).

Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc thế chấp tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, khi phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh, toàn bộ giá trị tài sản bảo đảm được dùng để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trường hợp giá trị tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì các đồng thừa kế tiếp tục phải thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh còn lại trong phạm vi di sản thừa kế được chia.

Lưu ý: Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại (khoản 4 Điều 336 BLDS năm 2015).

Câu hỏi 47. Một người phụ nữ đang có chồng nhưng nhận con nuôi theo đúng quy định của pháp luật. Khi người chồng của mẹ nuôi chết thì người con nuôi có được thừa kế di sản mà chồng của người mẹ nuôi để lại hay không?

Trả lời:

Việc thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và ngược lại đà được quy định trong các văn bản luật, cụ thể như sau:

Tại điếm 1 phần a mục III Thông tư số 81 /TANDTC ngày 24/7/1981 của TANDTC hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế có quy định: “Con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau. Con nuôi (hợp pháp hay thực tế) không được thừa kế theo luật đối với di sản của bố mẹ đẻ và anh, chị, em ruột”.

Điều 27 Pháp lệnh Thừa kế quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này”.

Điều 681 BLDS năm 1995 quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 679 và Điều 680 của Bộ luật này”.

Điều 678 BLDS năm 2005 quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này”.

Điều 653 BLDS năm 2015 quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”.

Như vậy, các quy định của pháp luật về việc thừa kế giữa cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi là thống nhất, xuyên suốt qua các giai đoạn. Tuy nhiên, việc người con nuôi có được thừa kế di sản của người chồng hoặc người vợ của mẹ nuôi, cha nuôi hay không thì pháp luật không quy định rõ.

Vấn đề này được hướng dẫn tại điểm a Điều 6 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể như sau: “Trong trường hợp người có con nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi không đương nhiên trở thành con nuôi của người khác đó cho nên họ không phải là người thừa kế của nhau theo pháp luật”.

Tuy nhiên, Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế. Do vậy, không còn hiệu lực đối với các BLDS sau này (khoản 4 Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020). Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của pháp luật có liên quan, có thể xác định được vấn đề nêu trong câu hỏi, cụ thể như sau;

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”. Như vậy, quan hệ cha, mẹ và con chỉ được xác lập giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi.

Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyển, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Theo các quy định nêu trên thì quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ được xác lập giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Do vậy, trong trường hợp cụ thể này, quan hệ mẹ nuôi – con nuôi chỉ được xác lập giữa người phụ nữ với người được nhận làm con nuôi. Quan hệ giữa người chồng của người phụ nữ với người được nhận làm con nuôi không đương nhiên trở thành cha nuôi – con nuôi, nền trường hợp người chồng của mẹ nuôi chết thì người con nuôi của người vợ không phải là người thừa kế theo pháp luật của người chết.

Câu hỏi 48. Pháp luật quy định về thừa kế chuyển tiếp như thế nào? Thừa kế chuyển tiếp khác với thừa kế thế vị thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015 về thừa kế thế vị thì: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu củng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.

Ví dụ: Cụ Đ có khối di sản để lại trị giá là 900 triệu đồng, cụ Đ có vợ là cụ B, vợ chóng cụ Đ – B có các con chung là ông T và óng N. Ông T có con là anh s và anh K; Ông N có con là chị A và chị A có con là Ng. Ông T chết trước cụ Đ, ông N và chị A chết cùng thời điểm với cụ Đ. Cụ Đ chết không để lại di chúc. Nếu có người yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Đông thì vụ việc sẽ được giải quyết như sau:

Theo quy định tại Điều 651 BLDS năm 2015 thì hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đ là cụ B, ông T và ông N nhưng ông T chết trước cụ Đ nên anh s, anh K thay ông T để hưởng di sản của cụ Đ, đóng thời ông N và chị A đều chết cùng thời điểm với cụ Đ nên Ng thay chị A để hưởng di sản của cụ Đ. Cụ thể: 900 triệu đồng: 3 = 300 triệu đồng (cụ B = ông T = chị A). Trong đó, anh K, anh s thế vị hưởng phần của ông T (300:2 = 150 triệu đóng). Ng thê vị hưởng phần của chị A = 300 triệu đồng.

Pháp luật dân sự không nêu khái niệm về thừa kế chuyển tiếp. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu thừa kế chuyển tiếp theo hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là chuyển tiếp về di sản và nghĩa thứ hai là chuyển tiếp quyền thừa kế giữa các hàng thừa kế.

Thừa kế chuyển tiếp theo nghĩa thứ nhất là trường hợp người chết để lại di sản nhưng chưa được chia cho các đồng thừa kế, sau đó một

trong số các đồng thừa kế của người này cũng bị chết thì di sản của người chết sau bao gồm cả phần di sản mà người này được hưởng (nhưng chưa chia) trong khối di sản của người chết trước.

Ví dụ: Ông A và bà B có 03 người con chung gốm: anh Ch, chị D và chị E. Ông A chết năm 1967, bà B chết năm 1996. Ông A, bà B chết đều không để lại di chúc. Khi còn sống, ông A và bà B có tạo lập được khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất thổ cư diện tích 200m2 tại thành phố H và căn nhà cấp 4 trên đất. Sau khi ông A, bà B chết, anh Cho tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất của cha mẹ. Năm 2000, anh Ch phá nhà cấp 4 để xây dựng căn nhà 03 tầng kiên cố trên diện tích 100m2 đất. Năm 2005, anh Ch chết, không để lại di chúc, anh Ch có vợ và 02 người con. Năm 2017, các người con của anh Ch yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế của anh Ch.

Vì ông A, bà B và anh Ch chết đều không để lại di chúc, nên di sản của những người này đều được chia theo pháp luật.

Anh Ch, chị D và chị E đều chết sau ông A, bà B.

Do vậy, trường hợp này di sản của anh Ch gồm có: % giá trị căn nhà 03 tầng (do vợ chồng anh Chi tạo lập) và diện tích thửa đất 200m2 tại thành phố H (phần di sản được hưởng từ ông A, bà B). Toàn bộ khối di sản này được chia cho 03 người thừa kế của anh Ch là vợ và 02 người con của anh Ch.

Như vậy, thừa kế thế vị và thừa kế chuyển tiếp loại này có những điểm khác biệt căn bản sau:

Một là, trong thừa kế thế vị, con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản (cháu được thừa kế thế vị); cháu cũng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản (chắt được thừa kế thế vị). Ngược lại, đối với thừa kế chuyển tiếp thì con của người để lại di sản chết sau người để lại di sản, nhưng di sản của người chết trước chưa được chia.

Hai là, những người thừa kế thế vị phải là người có quan hệ thuộc hàng thừa kế thứ nhất và người thế vị luôn ở vị trí đời sau, tức là chỉ có con thế vị cha, mẹ để hưởng di sản của ông bà hoặc các cụ chứ không xảy ra trường hợp cha, mẹ thế vị con để hưởng di sản của ông bà hoặc các cụ. Ngược lại, đối với thừa kế chuyển tiếp thì di sản của cha hoặc mẹ (chết trước) được chia và nhập chung vào khối di sản của người con (chết sau) và khối di sản này được chia bình thường theo quy định của pháp luật, không giới hạn người được hưởng thừa kế.

Ba là, trong thừa kế thế vị, giữa những người thừa kế phải có quan hệ huyết thống về trực hệ (chỉ có con đẻ thay thế vị trí của cha, mẹ đẻ). Trong khi đó, người thuộc diện được thừa kế chuyển tiếp có thể là con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng của người để lại di sản (có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc).

Thừa kế thế vị theo nghĩa thứ hai: là trường hợp chuyển tiếp quyền thừa kế giữa các hàng thừa kế, tức là trường hợp những người ở hàng thừa kế trước đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Khi đó những người ở hàng thừa kế tiếp theo sẽ được hưởng di sản thừa kế (khoản 3 Điều 651 BLDS năm 2015).

Câu hỏi 49. Õng A, bà B có 02 người con là anh M, chị N và có 01 người con nuôi là anh p. Việc nhận con nuôi không đăng ký thủ tục nuôi con nuôi nhưng anh p ở cùng với ông A, bà B từ lúc 5 (năm) tuổi đến khi ông A, bà B chết. Anh M khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của ống, bà B theo pháp luật. Chị Nhưng yêu cầu chia thừa kế và đề nghị Tòa án xác định anh p thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha mẹ. Anh p đồng ý theo ý kiến của chị N nhưng anh M không đồng ý cho anh p hưởng

thừa kế của cha mẹ. Tòa án có xác định anh p là hàng thừa kế thứ nhất của ngA, bà B để chia di sản thừa kế hay không?

Trả lời:

Điều 50 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định:

  1. . Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm, kể tử ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
  2. a) Các bên có đủ điều kiện vẻ nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi;
  3. b) Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống;
  4. c) Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.
  5. Sau khi được đăng ký, quan hệ nuôi con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này có giá trị pháp lý kể từ thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi.
  6. Chính phủ quy định chi tiết thủ tục đăng ký nuôi con nuôi quy định tại Điều này, bảo đảm thuận lợi và phù hợp với điều kiện thực tế của nhân dân ở các vùng, miền”.

Như vậy, hiện nay ông A, bà B nhận anh p làm con nuôi nhưng không đăng ký thủ tục nuôi con nuôi thì anh p không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông A, bà B.

Tuy nhiên, khi xem xét giải quyết tranh chấp di sản thừa kế của ông A, bà B cần xác định phần tài sản của anh p trong tài sản của ông A, bà B để lại để chia di sản thừa kế (sở hữu chung) nếu có. Bởi vì, anh p đã ở cùng với ông A, bà B từ lúc 5 tuổi đến khi ông A, bà B chết.

Câu hỏi 50. Việc xác định thời điểm mở thừa kế đối với trường hợp Tòa án tuyên bố chết như thế nào?thể giải quyết việc tuyên bố chết trong cùng vụ án tranh chấp chia thừa kế hay không?

Trả lời:

Quy định chung về thời điểm mở thừa kế trong BLDS hiện hành như sau:

– Khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015 quy định về thời điểm mở thừa kế:

“ỉ. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố’ một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”.

– Đối với trường hợp tuyên bố chết thì trong Quyết định tuyên bố chết phải xác định ngày chết của người đó (Điều 393 BLDS năm 2015).

Việc xác định ngày chết (thời điểm mở thừa kế) đối với trường hợp Tòa án tuyên bố chết căn cứ vào Điều 71 BLDS năm 2015:

1. Người có quyển, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:

  1. a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
  2. b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
  3. c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
  4. d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
  5. Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.”

Như vậy, có thể thấy rằng, tuyên bố chết là việc dân sự và là sở để xác định thời điểm mở thừa kế, phải được giải quyết riêng trước khi giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế. Vụ án có nhiều quan hệ pháp luật hoàn toàn khác nhau mà việc giải quyết quan hệ pháp luật này (tuyên bố chết) là tiền đế, cơ sở cho việc giải quyết quan hệ pháp luật tranh chấp sau đó (yêu cầu chia di sản thừa kế) thì không nên nhập vụ án.

Câu hỏi 5Ỉ. A là con nuôi của B. A chết trước B thì các con của A có được thừa kế thế vị của A hay không?

Trả lời:

Các quy định pháp luật liên quan đến tình huống trong câu hỏi tại BLDS năm 2015:

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

ỉ. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đày:

  1. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.

“Điêu 652. Thừa kế thế vị

Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.

“Điều 653. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và

còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”.

Trong thực tế có cách hiểu là: Pháp luật (BLDS) vẫn quy định con nuôi là một chủ thể khác với con đẻ nên không phải mọi quy định đối với con nuôi và con đẻ đều giống nhau. Con nuôi không đương nhiên là cháu nuôi của cha mẹ người nhận con nuôi. Con nuôi được hưởng thừa kế của cả cha, mẹ nuôi lẫn cha mẹ đẻ, trong khi con đẻ không được như vậy.

Từ sự khác nhau nêu trên cho thấy, chỉ khi nào pháp luật quy định rõ con nuôi là chủ thể hưởng quyền thì con nuôi mới được hưởng quyền chứ không thể cho rằng con nuôi có mọi quyền tương tự con đẻ.

Do đó, theo cách hiểu trên, cần phải hiểu quy định “còn được hưởng thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652” tại Điều 653 BLDS năm 2015 là hưởng di sản của cha mẹ đẻ, trong đó có quyền thừa kế thế vị; còn đối với di sản của cha mẹ nuôi, ông bà nuôi thì không có việc con nuôi, cháu nuôi được thừa kế thế vị.

Tuy nhiên, tại mục 5 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế đã có quy định: Nếu con nuôi chết trước cha, mẹ nuôi thì con của người con nuôi được hưởng thừa kế thế vị phần di sản mà đáng lẽ cha, mẹ họ được hưởng nếu còn sống.

Quy định của các BLDS về quyền thừa kế của con nuôi không khác với quy định của Pháp lệnh Thừa kế nên thực tiễn xét xử vẫn áp dụng quy định của Nghị quyết số 02/HĐTP nêu trên.

Câu hỏi 52. A là mẹ kế của B có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc B như mẹ con. B chết trước A. Các con của B có được thừa kế thế vị hay không?

Trả lời:

Câu hỏi 52. A là mẹ kế của B có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc B như mẹ con. B chết trước A. Các con của B có được thừa kế thế vị hay không?

Trả lời:

Điều 654 BLDS năm 2015 quy định: aCon riêng và bố dượng mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.

Điều 652 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.

Quy định của Điều 654 BLDS năm 2015 cũng tương tự Điều 653 BLDS năm 2015 nên cần vận dụng hướng dẫn của Pháp lệnh Thừa kế như Câu hỏi 51.

Đối chiếu với câu hỏi, do A có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc B như mẹ con nên khi A chết các con của B được hưởng thừa kế thế vị.

Câu hỏi 53. Quyền định đoạt di sản thừa kế của những người thừa kế có bị hạn chế so với chủ sở hữu tài sản không?

Trả lời:

Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định về quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu như sau:

Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.

Dựa trên quy định của Điều 192 nêu trên thì rõ ràng quyên định đoạt di sản của người thừa kế có những hạn chế nhất định so với chủ sở hữu tài sản:

–  Hạn chế theo pháp luật: Khi di sản thừa kế đã được xác định của những người thừa kế thì người thừa kế vẫn phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định tại Điều 615 BLDS năm 2015.

– Hạn chế theo di chúc: Nếu thừa kế theo di chúc thì người thừa kế còn phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản (không phải thực hiện nghĩa vụ về nhân thân) theo ý chí của người để lại di sản; dành di sản để thờ cúng (di chúc có điều kiện) theo quy định tại Điều 626 BLDS năm 2015.

Câu hỏi 54. Ông A có gửi giữ tinh trùng trong Ngân hàng tinh trùng. Ông A lập di chúc sau khi ông A chết sẽ nhở thụ thai bằng tinh trùng đang giữ tại Ngân hàng tinh trùng. Con của ông được sinh bằng hình thức thụ tinh nhân tạo có được hưởng di sản thừa kế của ông A hay không?

Trả lời:

Quy định chung của pháp luật về quyền thừa kế được nêu tại Điều 609 BLDS năm 2015:

“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.” I

Về người thừa kế, Điều 613 BLDS năm 2015 quy định:

“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”

Đối với trường hợp nêu tại Câu hỏi, con của ông A thành thai sau khi ông A chết (“sau khi ông A chết sẽ nhờ thụ thai”) vì vậy con của ông A không phải là người thừa kế theo quy định tại Điều 613 BLDS năm 2015 và không được hưởng di sản thừa kế của ông A.

Tuy nhiên, theo một số quan điểm (trong đó có Thẩm phán TANDTC Chu Xuân Minh), trường hợp ông A có di chúc nói rõ người

con này được hưởng thừa kế thì vẫn được hưởng theo di chúc. Việc ổng A lập di chúc cho con của ông A thể hiện ý chí của ông A nhằm chuyển tài sản của minh cho con sau khi chết được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 609 BLDS năm 2015. Đồng thời, việc này cũng phù hợp với nguyên tắc được quyền tự nguyện cam kết không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội (khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015).

Câu hỏi 55. Người con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trỢ sinh sản có được hưởng thừa kế của người cho tinh trùng, cho noãn hay không?

Trả lời:

Khoản 21 Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014 quy định: “Sinh con bâng kỹ thuật hỗ trỢ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.

Dưới góc độ y học, thụ tinh nhân tạo được hiểu là thủ thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc của người cho tinh trùng vào tử cung của người vỢ có nhu cầu sinh con để tạo phôi. Có quan điểm cho rằng, con nuôi vẫn được hưởng thừa kế của cha mẹ đẻ thì con sinh bằng kỹ thuật này cũng được hưởng thừa kế.

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

3. Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phối với người con được sinh ra”.

Vì vậy, chỉ có một trường hợp duy nhất người con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được hưởng thừa kế của người cho tinh trùng đó là trường hợp bơm tinh trùng của chồng vào tử cung của người vợ để tạo phôi (người con được xác định là con chung của vợ, chồng theo quy định tại Điều 88 Luật HNGĐ năm 2014).

Với các trường hợp khác, người con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ

sinh sản không có quan hệ cha con, mẹ con với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi nên họ không phải là con đẻ cũng như con nuôi. Do đó, họ cũng không có quan hệ thừa kế.

Câu hỏi 56. Trường hợp vụ án thừa kế mà diện tích đất tranh chấp có một phần nằm trong phạm vi lộ giới thì xử lý như thế nào?

Trả lời:

Đất nằm trong mốc lộ giới là đất mà diện tích của đất nằm trong phạm vi đất hành lang an toàn đường bộ. Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 thì hành lang an toàn đường bộ là dải đất dọc hai bên đất của đường bộ, tính từ mép ngoài đất của đường bộ ra hai bên để bảo đảm an toàn giao thông đường bộ.

Có quan điểm cho rằng, đất trong phạm vi lộ giới thuộc quản lý của Nhà nước nên không còn là di sản thừa kế. Quan điểm này chưa đúng. Bởi vì, theo khoản 3 Điều 157 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Người đang sử dụng đất được pháp luật thừa nhận mà đất đó nằm trong hành lang bảo vệ an toàn công trình thì được tiếp tục sử dụng đất theo đúng mục đích đã được xác định và không được gây cản trở cho việc bảo vệ an toàn công trình. Trường hợp việc sử dụng đất gây ảnh hưởng đến việc bảo vệ an toàn công trình thì chủ công trình và người sử dụng đất phải có biện pháp khắc phục, nếu không khắc phục được thì Nhà nước thu hồi đất và bổi thưởng theo quy định của pháp luật”.

Tại điểm c khoản 4 Điều 56 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai cũng quy định: “Đất trong hành lang an toàn công trình được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác

gắn liền với đất theo quy định của Luật Đất đai, trừ trường hợp đã có thông báo thu hồi đất hoặc quyết định thu hồi đất.

Người được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất chỉ được sử dụng đất theo quy định tại điểm b khoản này.n

Do vậy, trong vụ án thừa kế mà diện tích đất tranh chấp có một phần nằm trong phạm vi ]lộ giới thì Tòa án vẫn xác định quyền sử dụng diện tích đất này là di sản thừa kế.

Tuy nhiên, phần diện tích đất không trong phạm vi lộ giới được chia thừa kế (chia bằng hiện vật) theo quy định của pháp luật còn phần diện tích đất trong phạm vi lộ giới không được chia bằng hiện vật. Giá trị quyền sử dụng diện tích đất trong phạm vi lộ giới được Nhà nước bồi thường là di sản thừa kế.

Câu hỏi 57. Đất tranh chấp thừa kế có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng thuộc diện quy hoạch giải tỏa. Tại thời điểm giải quyết vụ án, Nhà nước chưa có kế hoạch đền bù giải tỏa (quy hoạch treo). Tòa án có tiếp tục giải quyết vụ án hay phải tạm đình chỉ chở khi nào có kế hoạch đền bù giải tỏa?

Trả lời:

BLTTDS hiện nay không quy định Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp này. Về nguyên tắc, người nào đang có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người đó đang có quyền sử dụng đất hợp pháp. Việc hạn chế quyền sử dụng đất phải có căn cứ rõ ràng (Ví dụ: Thông báo cấm giao dịch…). Do vậy, trong trường hợp này, quyền sử dụng đất vẫn là di sản thừa kế nên Tòa án phải tiếp tục giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, những người được chia quyền sử dụng đối với diện tích đất này phải chấp hành các quy định về đất đã có quy hoạch giải tỏa (không được chuyển nhượng, được Nhà nước bồi thường, thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với diện tích đất này…). Khi Tòa án giải quyết vụ án chia thừa kế cũng cần xác định giá trị đối với diện tích đất này để xem xét toàn diện vụ án.

Lưu ý: Tham khảo Tiểu mục 1.3 Mục 1 Phần II của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình; Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-TCĐC ngày 03/01/2002 của TANDTC, VKSNDTC, Tổng cục Địa chính hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất.

Câu hỏi 58. Vợ chồng ông A bà B chuyển nhượng đất cho ông c chỉ bằng hợp đồng viết tay vì thời điểm này đất thuộc quy hoạch không được chuyển nhượng. Sau khi ông A chết, diện tích đất trên đã được nhà nước điều chỉnh quy hoạch, được phép chuyển nhượng. Ông cyêu cầu bà B và các con làm thủ tục sang nhượng đất nhưng có 01 người con không đồng ý và yêu cầu chia di sản thừa kế. Ông c có yêu cầu độc lập đề nghị công nhận hợp đồng chuyển diện tích đất trên. Như vậy, quyển sử dụng diện tích đất trên còn là di sản thừa kế của ống không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015 thì: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác

định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”. Di sản thừa kế được xác định ở thời điểm mở thừa kế.

Tại thời điểm mở thừa kế (ông A chết) thì việc vợ chồng ông A chuyển nhượng cho ông c chưa đăng ký vào sổ địa chính theo quy định tại Điều 503 BLDS năm 2015, khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 nên hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng ông A và ông c chưa có hiệu lực pháp luật. Vợ chồng ông A vẫn còn quyền sử dụng đất nên quyền sử dụng đất trên vẫn là di sản thừa kế của ông A.

Việc công nhận hay không công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông A và ông c hay không cẩn căn cứ vào các yếu tố khác của quan hệ hợp đồng như: Thời điểm ký kết hợp đồng, các điều kiện của hợp đồng có hiệu lực…

Lưu ý:

– Diện tích đất được Nhà nước thu hồi thì giá trị quyền sử dụng đất vẫn là di sản thừa kế.

– Theo quy định tại khoản 7, khoản 8 Điều 49 Luật Đất đai năm 2013 (được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch năm 2018): “7. Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục thực hiện các quyển của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.

. Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 03 năm chưa có quyết định thu hối đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất.

Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định tại khoản 7 Điều này.”

Như vậy, trường hợp đất trong quy hoạch mà có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì vẫn được thực hiện các quyền của người sử dụng đất cho tới khi có quyết định thu hồi đất hoặc chuyển mục đích sử dụng đất theo kế hoạch nhưng sẽ bị hạn chế một số quyền như: Không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm. Do đó, đất thuộc diện quy hoạch thì người sử dụng đất vẫn được phép chuyển nhượng.

Tuy nhiên, để việc mua bán không trái với quy định của pháp luật thì phải đáp ứng một số điều kiện theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai năm 2013:

– Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 Luật Đất đai năm 2013 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai năm 2013;

– Đất không có tranh chấp;

– Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

– Trong thời hạn sử dụng đất.

Câu hỏi 59. Hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã có phải là điều kiện bắt buộc trước khi khởi kiện tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất hay không?

Trả lời:

Theo khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 khi xảy ra tranh chấp, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở sở.

Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của HĐTP TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy định:

“Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì thủ tục hòa giải tại ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án”.

Như vậy, theo khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP thì đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất thì thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án (không cần hòa giải tại UBND cấp xã).

Lưu ý: Đối với vụ án vừa có tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất vừa có yêu cầu chia thừa kế thì vẫn phải có thủ tục hòa giải Ở cơ sở.

Câu hỏi 60. Người thừa kế không trực tiếp sản xuất nông nghiệp có được nhận thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp hay không?

Trả lời:

Điều 609 BLDS năm 2015 quy định như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”

Điều 191 Luật Đất đai năm 2013 quy định các trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất bao gồm:

  1. . Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất đối với trường hợp mà pháp luật không cho phép chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất.
  2. Tổ chức kinh tê không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
  3. Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa.
  4. Hộ gia đình, cá nhãn không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó”.

Như vậy, theo quy định tại khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai năm 2013 thì cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp sẽ chỉ

thuộc đối tượng không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa. Do vậy, người thừa kế không trực tiếp sản xuất nông nghiệp vẫn được nhận thừa kế quyền sử dụng các loại đất nông nghiệp khác.

Mở rộng: Như đã phân tích ở trên, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, ta thấy cơ bản không có hạn chế trong việc thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp (Điều 179 và Điều 191 Luật Đất đai năm 2013).

Tuy nhiên, pháp luật giai đoạn trước lại có những nét khác biệt, cụ thể:

BLDS năm 1995 quy định chi tiết điều kiện để được nhận thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp và chia thành các trường hợp khác nhau:

  1. Trường hợp 1: Điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản (Điều 740 BLDS năm 1995):

“Người có đủ các điều kiện sau đày thì được thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản:

  1. Có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích;
  2. Chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai”.
  3. Trường hợp 2: Thừa kế quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở (Điều 743 BLDS năm 1995):

“Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở, sau khi chết có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật”.

Tuy nhiên, quy định điều kiện và cách phân chia như trên phần nào không phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, đến Luật Đất đai năm 2003 đâ không đặt ra điều kiện khác nhau trong việc thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp. Cụ thể, khoản 5 Điều 113 Luật Đất đai năm 2003 quy định:

“Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nêu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì được nhận thừa kế quyền sử dụng đất, nếu không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó”.

Hướng quy định này tại Luật Đất đai năm 2003 tiếp tục được kế thừa tại BLDS năm 2005 (Điều 734: “Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”’) và sau này là Luật Đất đai năm 2013 (Điều 179).

Câu hỏi 61. Ngày 01/01/2015, A thuê 5.000m2 đất của Nhà nước trong thời hạn 50 năm, trả tiền một lần. Ngày 01/01/2020, A chết. Quyền sử dụng diện tích 5.000m2 đất có phải là di sản thừa kế hay không?

Trả lời:

Điều 609 BLDS năm 2015 quy định như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật/

Đóng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013 thì cá nhân được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thì có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trường hợp người được thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 186 Luật Đất đai năm 2013 thì được nhận thừa kế quyền sử dụng đất; nếu không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 186 Luật Đất đai năm 2013 thì được chuyển nhượng hoặc được tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế theo quy định.

Do vậy, quyền sử dụng diện tích 5.000m2 đất nêu trên là di sản thừa kế của A. về nguyên tắc thì quyền tài sản cũng là tài sản và khi người có quyền tài sản chết, quyền tài sản này là di sản thừa kế. Tuy nhiên, có những hạn chế theo quy định của pháp luật phải tuân theo khi nhận thừa kế.

Câu hỏi 62. Người nước ngoài có được nhận di sản thừa kế là quyền sử dụng đất tại Việt Nam hay không?

Trả lời:

Việc người nước ngoài nhận di sản thừa kế là quyền sử dụng đất tại Việt Nam được quy định cụ thể tại khoản 3, khoản 4 Điều 186 Luật Đất đai năm 2013:

“3. Trường hợp tất cả người nhận thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất đều là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam quy định tại khoản 1 Điều này thì người nhận thừa kế không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhưng được chuyển nhượng hoặc được tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế theo quy định sau đây:

  1. a) Trong trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì người nhận thừa kế được đứng tên là bên chuyển nhượng trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
  2. b) Trong trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất thì người được tặng cho phải là đối tượng được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 179 của Luật này và phù hợp với quy định của pháp luật về nhà ở, trong đó người nhận thừa kế được đứng tên là bên tặng cho trong hợp đồng hoặc văn bản cam kết tặng cho;
  3. c) Trong trường hợp chưa chuyển nhượng hoặc chưa tặng cho quyền sử dụng đất thì người nhận thừa kế hoặc người đại diện có văn bản ủy quyền theo quy định nộp hồ sơ về việc nhận thừa kế tại cơ quan đăng ký đất đai để cập nhật vào Sổ địa chính.
  4. Trường hợp trong số’ những người nhận thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam còn những người khác thuộc diện được nhận thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa phân chia thừa kế quyền sử dụng đất cho từng người nhận thừa kế thì những người nhận thừa kế hoặc người đại diện có văn bản ủy quyền theo quy định nộp hồ sơ về việc nhận thừa kế tại cơ quan đăng ký đất đai để cập nhật vào Sổ địa chính.

Sau khi giải quyết xong việc phân chia thừa kế thì cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam thì phần thừa kế được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều này.”

Như vậy, căn cứ theo Điều 186 nêu trên thì người nước ngoài chỉ được chuyển nhượng hoặc tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế tại Việt Nam theo quy định.

Luật Đất đai năm 2013 đã dành riêng một điều khoản (Điều 186 nêu trên) để điều chỉnh việc thừa kế quyền sử dụng đất tại Việt Nam của người nước ngoài. Tuy nhiên, pháp luật các giai đoạn trước đây lại chưa có quy định cụ thể để điều chỉnh mối quan hệ này.

Câu hỏi 63. Quyển sử dụng đất được hình thành bằng hình thức thuê đất của Nhà nước, trả tiền hàng năm, có phải là di sản thừa kế hay không?

Trả lời:

Điểm c khoản 2 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013 quy định hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm chỉ có quyển: “Để thừa kế, tặng cho tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê; người nhận thừa kế, người được tặng cho tài sản được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất theo mục đích đã được xác định”.

Do vậy, quyền sử dụng đất được hình thành bằng hình thức thuê đất của Nhà nước, trả tiền hàng năm không phải là di sản thừa kế. Họ chỉ có quyền đối với tài sản trên đất thuê và được Nhà nước tiếp tục cho thuê theo mục đích, quy định của pháp luật (nếu họ có đủ điều kiện thuê đất).

Câu hỏi 64. Đất chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có được lập di chúc để lại thừa kế quyền sử dụng đất hay không?

Trả lời:

Việc lập di chúc để lại thừa kế quyền sử dụng đối với đất chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diễn ra phổ biến. Cần lưu ý rằng, theo quy định của pháp luật thì không phải cứ có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới có quyền sử dụng hợp pháp. Tham khảo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC

ngày 03/01/2002 của TANDTC, VKSNDTC, Tổng cục Địa chính hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất vê 03 loại đất:

+ Loại đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng;

+  Loại có thể được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng;

+  Loại sử dụng không hợp pháp.

Đối chiếu với pháp luật hiện hành, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế’ chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất như sau:

+ 1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

  1. a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
  2. b) Đất không có tranh chấp;
  3. c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
  4. d) Trong thời hạn sử dụng đất.
  5. Ngoài các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này, người sử dụng đất khi thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất còn phải có đủ điều kiện theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192,193 và 194 của Luật này.
  6. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chính?

Do vậy, muốn lập di chúc để lại thừa kế đất chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đất đó phải đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013.

Cũng cần lưu ý thêm rằng, về nguyên tắc, khi mở thừa kế thì di chúc mới có hiệu lực, di chúc về phần tài sản không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người lập di chúc sẽ bị vô hiệu.

Câu hỏi 65. Có quyền yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất có nhà từ đường, nhà thờ họ hay không?

Trả lời:

Nhà từ đường hay còn gọi là nhà thờ là công trình chuyên dụng dành riêng cho mục đích thờ cúng tổ tiên của một dòng họ hay từng chi họ tính theo phụ hệ dòng của cha. Nhà từ đường là một trong những nét văn hóa phổ biến của người Việt tại khu đóng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ. Chi họ lớn, sau khi đã phân chia thì nhà thờ của dòng trường nam sẽ là nơi thờ phụng từ đời ông Thủy tổ, nơi giữ gia phả gốc. Các nhánh họ khác đều có nơi thờ cúng riêng từ đời ông tổ chi trường, gọi là nhà thờ chi họ hay cửa họ.

Theo quy định tại Điều 211 BLDS năm 2015 thì:

“l. Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng đồng.

  1. Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
  2. Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.”

Khoản 5 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quỵ định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đắt đó không có tranh chấp, được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.n

Điều 160 Luật Đất đai năm 2013 quy định:

“ỉ. Đất tín ngưỡng gồm đất có công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ.

  1. Việc sử dụng đất tín ngưỡng phải đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
  2. Việc xây dựng, md rộng các công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ của cộng đồng phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”

Điều 645 BLDS năm 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng:

  1. . Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong sô những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

  1. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”

Như vậy, về nguyên tắc thì nhà từ đường là công trình của tập thể nên do các thành viên của tập thể đồng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thỏa thuận hoặc theo tập quán, dựa trên quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Đây là loại tài sản chung hợp nhất không được phép phân chia. Do vậy, không có quyền yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất có nhà từ đường, nhà thờ họ.

Lưu ý:

  1. Đối với nhà vừa để ở vừa để làm nơi thờ cúng thì vẫn có thể phân chia để xem xét công sức quản lý, duy trì, tôn tạo ngôi nhà đó.
  2. Trong trường hợp việc thờ cúng không được thực hiện thì tham khảo, vận dụng Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế để giải quyết: “Nếu thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã hết mà việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc, thì người nào trong số những người thừa kế theo pháp luật đang quản lý hợp pháp di sản đó được hưởng di sản đó; nếu người đang quản lý hợp pháp di sản dùng vào việc thờ cúng không phải là người thừa kế theo pháp luật, thì người thừa kế theo quy định tại Điều 25 của Pháp lệnh Thừa kế mà đang còn sống vào thời điểm xảy ra tranh chấp về di sản đó được hưởng’.

Câu hỏi 66. Quyền ưu tiên mua nhà của Nhà nước có phải là di sản thừa kế hay không?

Trả lời:

Điều 612 BLDS năm 2015 quy định về di sản thừa kế bao gồm:

“Tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

Tài sản theo quy định của Điều 105 BLDS năm 2015 bao gồm:

  1. . Tài sản là vật, tiễn, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

 

  1. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

Khi người được ưu tiên mua nhà chết mà vẫn chưa thực hiện xong các thủ tục mua nhà cũng như vẫn còn trong thời hạn được ưu tiên; những người thừa kế theo pháp luật của người chết có thể thừa kế quyền ưu tiên đó để thực hiện việc mua nhà đảm bảo quyền lợi của họ.

Trong quy định của pháp luật dân sự không có căn cứ rõ ràng về việc những người thừa kế có được hưởng quyền ưu tiên mua nhà mà người chết để lại hay không. Nhưng xét về bản chất, việc thừa kế quyền ưu tiên cũng là để đảm bảo quyền và lợi ích cho người để lại di sản mà trước khi chết đáng lẽ họ được hưởng.

Căn cứ những phân tích trên, quyên ưu tiên mua nhà là quyền gắn liền với quyền tài sản. Vì vậy, quyền ưu tiên mua nhà cũng được xem là di sản thừa kế.

Thực tiễn xét xử: Tham khảo Án lệ số 31/2020/AL ngày 05/02/2020 của TANDTC về xác định quyền thuê nhà, mua nhà thuộc sở hữu của Nhà nước theo Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về quyền tài sản.

Câu hỏi 67. Cụ D và vợ là cụ Ng có một căn nhà trên khuôn viên 200m2. Năm 1985, cụ D chết. Năm 1999, nhà đổ, cụ Ngang ở cùng với ông Th là con trai có nhà bên cạnh nhà đất củ của hai cụ. Khuôn viên 200m2 nhà cũ của hai cụ do ông Th quản lý, sử dụng làm vườn

và đứng tên trên sổ địa chính. Năm 2006, cụ Ng chết. Ngày 15/02/2009, bà Đ (em gái ông Th) đã định cư ở nước ngoài từ năm 1990 trở về khởi kiện yêu cầu được hưởng tám đất thổ cư cũ của cha mẹ là 100m2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này không? Di sản thừa kế là nhà ở hay chỉ có đất? Thời hiệu khởi kiện có còn không?

Trả lời:

Ông Th đã người đứng tên trên sổ địa chính thì cho dù đây là tranh chấp đất đai hay tranh chấp về nhà ở thì cũng đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy nhiên, việc xác định tranh chấp về nhà ở hay tranh chấp đất đai còn có ý nghĩa để áp dụng đúng pháp luật. Tranh chấp đất đai thì áp dụng pháp luật về đất đai, còn nếu là tranh chấp về nhà ở thì áp dụng pháp luật về nhà ở. Việc xác định đó còn có ý nghĩa xác định thời hiệu khởi kiện vì quy định về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp nhà khác với thời hiệu khởi kiện tranh chấp đất đai. Vì vậy, cần phải xác định di sản thừa kế là nhà ở hay chỉ có đất.

Theo quy định của pháp luật thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quyền thừa kế, tức là bắt đầu của giao dịch thừa kế. Vì vậy, xác định tính chất của di sản phải là di sản ở thời điểm mở thừa kế. Cụ D và cụ Ng có tài sản chung là căn nhà trên khuôn viên 200m2 nên xác định tính chất di sản phải ở thời điểm mở thừa kế đầu tiên (thời điểm cụ D chết) và đó là nhà ở.

Năm 1999, căn nhà đổ. Khuôn viên 200m2 nhà cũ của hai cụ do ông Th quản lý, sử dụng làm vườn và đứng tên trên sổ địa chính thì đất đó vẫn là một bộ phận của nhà ở cũ, trừ trường hợp có quyết định của cơ quan có thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng đất. Vì vậy, nay bà Đ khởi kiện yêu cầu chia đất chính là yêu cầu chia một phần nhà ở. Đây là tranh chấp về thừa kế nhà ở, phải áp dụng pháp luật về nhà ở.

Nếu chỉ là tranh chấp thừa kế đất đai thì thời điềm cụ D chết là năm 1985, thời hiệu khởi kiện được tính là ngày 10/9/1990 (thời điểm Pháp lệnh Thừa kế có hiệu lực) với quy định thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm thì đến 10/9/2000 thời hiệu khởi kiện chia thừa kế của cụ D đã hết.

Tuy nhiên, đây là tranh chấp thừa kế về nhà ở, lại có người nước ngoài tham gia (bà Đ là em gái ông Th định cư ở nước ngoài) thì phải áp dụng Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Nghị quyết số 1037/2006/ NQ-UBTVQH11 thì: “Thời gian tử ngày 01 tháng 7 năm 1996 đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực không tính vào thời hiệu trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia”. Ngày Nghị quyết có hiệu lực là 01/9/2006. Thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/9/2006 không tính vào thời hiệu là 10 năm 02 tháng. Như vậy, đến ngày 10/11/2010 mới hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế của cụ D. Năm 2009, bà Đ (em gái ông Th) khởi kiện là vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện.

Câu hỏi 68. Nhà từ đường cố áp dụng pháp luật về nhà ở không? Xác định tính chất của tài sản theo thời điểm nào? Nếu nhà hiện nay không còn thì đất có thể coi là di sản thừa kế không?

Trả lời:

Pháp luật về đất khác với pháp luật về nhà. Trong pháp luật về nhà lại có nhiều quy định riêng về nhà ở. Trong thực tế, nhà thường gắn với đất, có trường hợp thành khuôn viên riêng, có trường hợp giới hạn

khuôn viên không rõ ràng; có trường hợp bên cạnh nhà ở còn có nhà xưởng, nhà thờ; có trường hợp khi mở thừa kế thi có nhà nhưng nay yêu cầu chia thì nhà không còn nữa. Cẩn phải xác định đúng quan hệ tranh chấp thì mới có căn cứ áp dụng đúng pháp luật.

Ví dụ: Cố A và vợ là cố G có 07 người con, trong đó có cụ M (nguyên đơn). Cụm khởi kiện cho rằng căn nhà từ đường và quyền sử dụng 4.000m[1] đất (đo thực tế là 4.067m2) tại thôn Vĩnh Điềm Trung là di sản của cố A và cố G; yêu cầu được chia thừa kế. BỊ đơn là ông L (cháu gọi cụ M là chú ruột) không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn vì cho rằng căn nhà hiện nay do cha của ông là cụ H xây dựng lại và ông L đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Có ý kiến cho rằng, cần phải đình chỉ giải quyết yêu cầu của cụM vì lý do di sản của cố A, cố G không còn nên cụ M không có quyền khởi kiện.

Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm xác định[2]:

Việc áp dụng pháp luật nào để giải quyết tranh chấp thừa kế căn cứ vào thời điểm giao dịch, tức là thời điểm mở thừa kế. Do vậy, tính chất của di sản (là nhà ở, nhà từ đường, hay chỉ là đất…) cũng phải được xác định ở thời điểm mở thừa kế. Trong vụ án này thì thời điểm mở thừa kế của cố A là năm 1952, của cố G là năm 1981; di sản của ai thì xem xét theo thời điểm mở thừa kế của người ấy. Di sản ở thời điểm mở thừa kế nếu là nhà ở thì phải áp dụng quy định của pháp luật về nhà ở là Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 hoặc Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH ngày 27/7/2006 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân

sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đáng lưu ý là theo quy định hiện hành (Công văn số 91/TANDTC-KHXX ngày 28/6/2011 về việc áp dụng Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11) thì những người tham gia vào giao dịch dân sự về nhà ở phải định cư ở nước ngoài trước ngày 01/7/1991 thì mới thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết số 1037/2006/ NQ-UBTVQH11. Trong vụ án này chưa xác định rõ ở thời điểm mở thừa kế có nhà ở hay vừa là nhà thờ vừa là nhà ở hay không; nếu chỉ là nhà từ đường (không dùng để ở) thì không thuộc diện được áp dụng Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 cũng như Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11.

Nếu tại thời điểm mở thừa kế mà có nhà ở thì đất thổ cư và khuôn viên nhà ở cũng là một bộ phận của nhà ở nên nếu hiện nay nhà không còn thì vẫn phải xác định đất đó được giải quyết theo pháp luật về nhà ở, bao gồm cả việc tính thời hiệu khởi kiện. Trong trường hợp ở thời điểm mở thừa kế không có nhà ở thì quyền sử dụng đất vẫn có thể là di sản thừa kế (theo quy định tại Tiểu mục 1.2 Mục 1 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình) nếu đất tranh chấp có một trong các loại giấy tờ quy định ở Điều 50 Luật Đất đai năm 2003. Tuy nhiên, nếu di sản chỉ là quyền sử dụng đất (không gắn với nhà ở) thì đến ngày 11/6/2007 mới khởi kiện là đã hết thời hiệu khởi kiện nếu không có căn cứ gì khác.

Có thể kết luận là: Nhà từ đường không dùng để ở thì không thuộc đối tượng của pháp luật về nhà ở. Thời điểm xác định tính chất của di sản là thời điểm mở thừa kế. Nhà hiện nay không còn nhưng đất vẫn có thể là di sản nếu đất đó là một bộ phận của nhà ở vào thời điểm mở thừa kế hoặc tuy không gắn với nhà ở nhưng thỏa mãn các điều kiện quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP là người để lại di sản có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003.

Câu hỏi 69. Nhà mua trả chậm mà chưa trả xong tiền có phải là di sản thừa kế không? Việc chia thừa kế nhà trả chậm như thế nào?

Trả lời:

Phương thức thanh toán của mua trả chậm là thanh toán một lần nhưng không phải thanh toán ngay. Iheo phương thức này, bên mua sẽ trả toàn bộ tiền cho bên bán một thời gian nhất định sau khi giao kết hợp đồng và nhận tài sản. Trong hình thức mua trả chậm, mặc dù bên mua chưa thanh toán hoặc thanh toán chưa hết tiền cho bên bán nhưng họ lại được nhận tài sản mua bán và có quyền đưa tài sản vào khai thác công dụng; còn bên bán đã giao vật cho bên mua nhưng họ vẫn còn quyền sở hữu đối với tài sản đã bán. Về phương diện pháp lý, đây là một dạng hợp đồng mua bán được giao kết với điều kiện bảo lưu, trì hoãn quyền sở hữu của bên bán đối với tài sản đã bán. Pháp luật công nhận quyền sở hữu của bên bán được bảo lưu cho đến khi bên mua thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ thanh toán. Trong thời gian trả chậm, trả dần, nếu bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán (như không trả tiền, trả tiền không đầy đủ, trả không đúng hạn), bên bán có quyền đòi lại tài sản đã bán.

Điều 453 BLDS năm 2015 quy định về mua trả chậm, trả dần như sau:

  1. . Các bên có thể thỏa thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận tài sản mua. Bên bán được bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Hợp đồng mua trả chậm hoặc trả dần phải được lập thành văn bản. Bên mua có quyền sử dụng tài sản mua trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Điều 125 Luật Nhà năm 2014 quy định về mua bán nhà ở trả chậm, trả dần như sau:

  1. . Việc mua bán nhà ở trả chậm, trả dẩn do các bên thỏa thuận và được ghi rõ trong hợp đồng mua bán nhà ở; trong thời gian trả chậm, trả dần, bên mua nhà ở được quyền sử dụng nhà ở và có trách nhiệm bảo trì nhà ở đó, trừ trường hợp nhà ở còn trong thời hạn bảo hành theo quy định của Luật này hoặc các bên có thỏa thuận khác.
  2. Bên mua nhà ở trả chậm, trả dân chỉ được thực hiện các giao dịch mua bán, tặng cho, đổi, thế chấp, góp vốn nhà ở này với người khác sau khi đã thanh toán đủ tiền mua nhà ở, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Trường hợp trong thời hạn trả chậm, trả dần mà bên mua nhà ở chết thì người thừa kế hợp pháp được thực hiện tiếp các quyển, nghĩa vụ của bên mua nhà ở và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận sau khi người thừa kế đã trả đủ tiền mua nhà cho bên bán.

  1. Trường hợp bên mua nhà ở có nhu cẩu trả lại nhà ở đã mua trong thời gian trả chậm, trả dần và được bên bán nhà ở đồng ý thì hai bên thỏa thuận phương thức trả lại nhà ở và việc thanh toán lại tiền mua nhà ở đó”.

Như vậy, căn cứ các quy định trên và theo quy định tại Điều 105 và Điều 612 BLDS năm 2015 thì nhà mua trả chậm mà chưa trả xong tiền là di sản thừa kế (quyên tài sản). Người nào nhận nhà thì thực hiện quyển, nghĩa vụ đối với nhà trả chậm được nhận đó.

Câu hỏi 70. Trong trường hợp nào người trực tiếp quản lý, sử dụng nhà ở là di sản được tính công sức quản lý? Giá trị tăng lên của nhà ở có được coi là căn cứ xác định công sức quản lý hay không?

Trả lời:

Trước hết cần phân biệt người quản lý, sử dụng trực tiếp di sản với người quản lý di sản.

Người quản lý di sản là người trông coi, giữ gìn di sản thừa kế. Điều 616 BLDS năm 2015 quy định:

  1. u Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
  2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cữ được người quản lý di sản.
  3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý”.

Còn người quản lý, sử dụng trực tiếp di sản là người đang quản lý, sử dụng trực tiếp di sản không phụ thuộc người đó có được chỉ định trong di chúc hoặc do người thừa kế thỏa thuận cử ra hay không. Người quản lý, sử dụng trực tiếp di sản có thể không phải là người thừa kế theo pháp luật hoặc người thừa kế theo di chúc.

Ví dụ: Cháu của người chết đang quản lý di sản khi những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất không quản lý di sản.

Trong thực tiễn xảy ra nhiều trường hợp người quản lý, sử dụng trực tiếp di sản không phải là người thừa kế, những người này đã quản lý, sử dụng di sản đó trong thời gian dài. Trong nhiều trường hợp, nếu không có họ quản lý, sử dụng di sản thì di sản đó không còn hoặc bị thu hồi. Ví dụ: Người quản lý di sản của những người đi nước ngoài trong thời gian dài.

Thực tế, có việc giá trị tài sản tăng lên nhiều từ khi người trực tiếp quản lý, sử dụng trực tiếp di sản đến khi xảy ra tranh chấp. Do vậy, quy định về việc tính công sức đối với người trực tiếp quản lý, sử dụng di sản là phù hợp, đảm bảo quyền lợi của họ.

Trước thực tế đó, TANDTC đã ban hành Án lệ số 05/2016/AL để giải quyết trường hợp người trực tiếp quản lý, sử dụng di sản thừa kế

không thuộc hàng thừa kế thứ nhất nhưng có nhiều công sức trong quản lý, sử dụng, sửa chữa nhà. Khi xem xét chia thừa kế cần tính công sức của người trực tiếp quản lý, sử dụng di sản trong trường hợp này.

Lưu ý: Nếu người trực tiếp quản lý, sử dụng di sản thừa kế đã được hưởng lợi từ việc quản lý thì không được hưởng công sức quản lý. Ví dụ: Người trực tiếp quản lý, sử dụng di sản dùng tài sản đó để kinh doanh hoặc cho người khác thuê để thu lợi.

Câu hỏi 71. Đối với vụ án chia di sản thừa kế có liên quan đến tài sản là cây trồng trên đất. Các đồng thừa kế trình bày mâu thuẫn nhau về nguồn gốc các cây trồng. Mỗi lần xem xét thẩm định, cây trồng có sự tăng giảm khác nhau về số lượng lẫn loại cây trồng. Đất do nhiều người quản lý, không xác định ai là người trồng cây. Việc giải quyết thừa kế đối với cây trồng này như thế nào?

Trả lời:

Việc giải quyết thừa kế đối với cây trồng trên đất trong trường hợp này là vấn đề đánh giá chứng cứ, không thể trả lời là chấp nhận hay không chấp nhận ý kiến của ai nếu không xem xét toàn diện, khách quan vụ án. Trường hợp này cần áp dụng những nguyên tắc cơ bản của chứng cứ (ai đưa ra sự kiện thì phải chứng minh, những sự kiện không phải chứng minh…) theo quy định tại Điều 6 về Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, Điều 91 về Nghĩa vụ chứng minh, Điều 92 về Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh… trong BLTTDS năm 2015.

Do vậy, đất đã là di sản thừa kế thì những người yêu cầu xác định có công sức đóng góp, có công sức đối với cây trồng trên đất sẽ có nghĩa vụ chứng minh. Nếu không có chứng cứ khác thì xác định cây trồng trên đất thuộc di sản thừa kế.

Câu hỏi 72. Nhà tái định cư sau khi Nhà nước thu hồi đất có là di sản thừa kế không?

Trả lời:

Theo khoản 6 Điều 3 Luật Nhà ở năm 2014 thì nhà ở đề phục vụ tái định cư là nhà ở để bố trí cho các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, bị giải tỏa nhà ở theo quy định của pháp luật.

Theo Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì các trường hợp được hỗ trợ nhà ở tái định cư, bao gồm:

Trường hợp 1: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam khi Nhà nước thu hồi đất ở mà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bồi thường bằng đất hoặc nhà ở tái định cư nếu đáp ứng được 02 điều kiện sau (khoản 1 Điều 6).

+ Trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh;

+ Không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi.

Lưu ý: Hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở tái định cư thì được Nhà nước bồi thường bằng tiền (khoản 3 Điều 6).

Trường hợp 2: Trường hợp có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng 01 thửa đất ở thu hồi thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở tái định cư và tình hình thực tế tại địa phương quyết định mức đất ở, nhà ở tái định cư cho từng hộ gia đình (khoản 2 Điều 6).

Trường hợp 3: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở nằm trong hành lang an toàn khi xây dựng công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn phải di chuyển chỗ ở mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn

xã, phường, thị trấn nơi có đất trong hành lang an tòa n thì được bố trí tái định cư… (khoản 5 Điều 10).

Trường hợp 4: Thu hồi đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa tính mạng con người; đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người (khoản 1 Điều 16). Hộ gia đình, cá nhân trong trường hợp này có thể được hỗ trợ tái định cư dưới hình thức nhà ở hoặc đất ở…

Quan hệ thừa kế phát sinh ở thời điểm mở thừa kế nên việc xác định di sản cũng ở thời điểm mở thừa kế. Việc xác định nhà tái định cư sau khi Nhà nước thu hồi đất có là di sản thừa kế hay không phải xác định tại thời điểm mở thừa kế nhà tái định cư đó tồn tại ở thời điểm chia hay không, nhà tái định cư đó có là tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác hay không.

Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác định nhà tái định cư sau khi Nhà nước thu hồi đất có là di sản thừa kế hay không cần làm rõ nguồn gốc, điều kiện, căn cứ được cấp nhà tái định cư đó; nhà tái định cư thuộc phần bồi thường do thu hồi đất hay phần hỗ trợ trực tiếp cho người đang quản lý, sử dụng đất bị thu hồi (tiên hỗ trợ chuyển đổi nghề khi Nhà nước thu hói, tiền hỗ trợ sinh hoạt…).

Câu hỏi 73. Tiền bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự có phải là di sản thừa kế không?

Trả lời:

Nguyên tắc chung xác định tài sản là di sản hay không thì phải xác định tài sản đó có thuộc tài sản của người chết hay không.

Đối với bồi thường về sức khỏe, danh dự phải xác định khoản bồi thường này là bồi thường trực tiếp cho người bị thiệt hại khi họ còn sống thì đương nhiên khoản bồi thường về sức khỏe, danh dự này thuộc tài sản của họ, di sản thừa kế khi họ chết.

Đối với bồi thường về tính mạng phải căn cứ khoản bồi thường cụ thể cho từng đối tượng thụ hưởng. Điều 591 BLDS năm 2015 quy định:

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

  1. a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
  2. b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
  3. c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
  4. d) Thiệt hại khác do luật quy định.
  5. Người chịu trách nhiệm bồi thưởng trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

Do vậy, bồi thường về chi phí phải bỏ ra (cứu chữa, mai táng…) là bồi thường thiệt hại của người chết nên vẫn là di sản; bồi thường về tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, về tổn thất tinh thần cho người còn sống… có đối tượng cụ thể, không bồi thường trực tiếp cho người chết thì không phải là di sản thừa kế.

M

 

Câu hỏi 74. Anh A ký kết hợp đồng lao động với Công ty B. Quá trình làm việc, anh A chết vì bị tai nạn lao động. Phía công ty B đã thực hiện các quy định về pháp luật lao động, pháp luật về bảo hiểm xã hội và đã thanh toán cho gia đình anh A sô tiên 100.000.000 đồng (do người vỢ đại diện nhận). Sau đó, bố mẹ anh A khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Số tiền 100.000.000 đồng có phải là di sản thừa kế không?

Trả lời:

Để xác định số tiền 100.000.000 đồng thanh toán cho gia đình anh A nêu trên có phải là di sản thừa kế hay không cần phải xác định số tiền này thanh toán những khoản nào. Những khoản tiền nào thuộc tài sản thanh toán trực tiếp cho anh A khi chết là di sản thừa kế. Còn những khoản tiền nào do Công ty thanh toán cho thành viên khác trong gia đình (vợ, con của anh A) khi anh A chết thì không phải là di sản thừa kế. Ví dụ như: tiên trợ cấp tuất cho con chưa thành niên; con bị suy giảm khả năng lao động…

Câu hỏi 75. Sau khi ông M chết, số tiền mọi người đến phúng viếng trong đám tang ông M thu được là 200.000.000 đồng. Khi khởi kiện vụ án thừa kế, các đương sự đề nghị xác định số tiền này là di sản thừa kế. Tòa án có chấp nhận không?

Trả lời:

Tiền phúng điếu là một đặc trưng trong văn hóa của người Việt. Mỗi người đến dự đám tang sẽ phúng viếng một khoản tiền cho gia đình có tang.

Điều 612 BLDS năm 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

Khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015 cũng quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chêt thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”.

Theo các quy định nêu trên thì tiền phúng viếng là tài sản có được sau thời điểm mở thừa kế, không phải tài sản của người chết nên tiền phúng viếng tại đám hiếu không phải là di sản thừa kế.

Câu hỏi 76. Sau khi cụ X chết, ông Y đã làm các thủ tục để truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho cụ X. Sau đó, cụ X đã được truy tặng danh hiệu và ông Y trực tiếp nhận một lần số tiền được Nhà nước trợ cấp đối với người có công. Vậy số tiền này cố được xác định là di sản thừa kế của cụ X không?

Trả lời:

Số tiền được Nhà nước trợ cấp đối với người có công là số tiền Nhà nước trao tặng cho cá nhân cụ X. Nếu cụ X còn sống thì cụ X sẽ được số tiền này. Do vậy, theo quy định của pháp luật thì số tiến Nhà nước trợ cấp đối với người có công (cụ X) là di sản thừa kế.

Câu hỏi 77. Quyên tác giả có phải là di sản thừa kế hay không?

Trả lời:

Các quy định hiện hành liên quan:

Điều 612 BLDS năm 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”

Điều 105 BLDS năm 2015 định nghĩa về tài sản bao gồm:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

  1. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai/

Điều 115 BLDS năm 2015 quy định quyền tài sản là; Quyển trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyển sử dụng đất và các quyền tài sản khắc.

Đồng thời, Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009,2019 và 2022) quy định quyền tài sản bao gồm:

“1. Quyền tài sản bao gồm:

  1. a) Làm tác phẩm phái sinh;
  2. b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;
  3. c) Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều này;
  4. d) Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;

đ) Phát sóng truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn;

  1. e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, trừ trường hợp chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chính của việc cho thuê.
  2. Các quyền quy định tại khoản 1 Điều này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhàn khác thực hiện theo quy định của Luật này.

Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, các quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, các điều 25,25a, 26, 32 và 33 của Luật này. Trường hợp làm tác phẩm phái sinh mà ảnh hưởng đến quyền nhân thân quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật này còn phải được sự đồng ý bằng văn bản của tác giả.

  1. Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hành vi sau đày:
  2. a) Sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;
  3. b) Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối”

Điều 40 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022) cũng quy định:

Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này.”

Từ các quy định nêu trên, ta nhận thấy các quyền tài sản (Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009,2019 và 2022)

và quyển nhân thân gắn với tài sản (khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022) trong quyền tác giả được coi là di sản thừa kế.

Câu hỏi 78. Việc thừa kế quyền tác giả có bị hạn chế gì không so với quy định chung của việc thừa kế tài sản?

Trả lời:

Như đã phân tích tại Câu hỏi 77, người thừa kế quyền tác giả chỉ được hưởng quyền tài sản (Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022) và quyền nhân thân gắn với tài sản (khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 và 2022) trong quyền tác giả.

Vì vậy, người thừa kế quyền tác giả bị hạn chế so với quy định chung của việc thừa kế tài sản, họ không được hưởng trọn vẹn quyền tác giả mà chỉ được hưởng một phần quyền tác giả có quyền để lại thừa kế.

Sự khác biệt này bắt nguồn từ tính chất đặc biệt của quyền tác giả. Quyền tác giả là một chế định được pháp luật sở hữu trí tuệ đặt ra nhằm mục đích bảo vệ thành quả lao động, sáng tạo của các tổ chức, cá nhân, khuyến khích mọi người cùng phát triển sự sáng tạo, cùng nhau tạo ra những tài sản trí tuệ phục vụ cho nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi người. Người thừa kế quyền tác giả sẽ được thừa kế những quyền tác giả có thể chuyển giao được (quyền gắn với tài sản) mà sẽ không được thừa kế những quyền không thể được chuyển giao (quyền nhân thân).

Câu hỏi 79. Tài sản Nhà nước cấp cho thân nhân người có công với cách mạng có phải di sản thừa kế của người có công với cách mạng không?

Trả lời:

Sau khi người có công với cách mạng chết, cơ quan nhà nước có

thẩm quyền mới quyết định cho thân nhân của họ hưởng tài sản theo quy định của pháp luật, do vậy, tài sản được cấp này không phải là di sản của người có công với cách mạng. Đây là tài sản chung của các thân nhân người có công với cách mạng. Do vậy, tài sản trên không phải là di sản thừa kế của người có công với cách mạng.

Khi giải quyết vụ án trong trường hợp này hiện nay có thể áp dụng, vận dụng điểm 2 Mục III Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình:

“2. Tài sản được Nhà nước cấp cho thân nhân của người có công với cách mạng

Nếu sau khi người có công với cách mạng đã chết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới quyết định cho thân nhân của họ hưởng tài sản theo quy định của pháp luật và giữa các thân nhân của người đó có tranh chấp về tài sản và yêu cầu Tòa án giải quyết, thì đây là vụ án dân sự yêu cầu chia tài sản chung. Khi giải quyết cắn phân biệt như sau:

  1. Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có ghi cụ thể tên người được hưởng tài sản, thì chỉ người có tên mới được hưởng tài sản đó.
  2. Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không ghi rõ người được hưởng tài sản gồm những người cụ thể nào mà chỉ ghi cấp chung cho thân nhân của người có công với cách mạng thì thân nhân của người đó được hưởng chung. Việc xác định ai là thân nhân của người có công với cách mạng trong trường hợp cụ thể được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Ví dụ: Theo quy định tại Điều 5 của Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cải thiện nhà ở thì thân nhân của người có công với cách mạng là vợ, chồng các con của ngươi đó.

 

Nếu trong văn bản pháp luật Chính phủ không quy định cụ thể ai là thân nhân của người có công với cách mạng mà chỉ quy định chung là thân nhân thì thân nhân của người có công với cách mạng gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng người có công với cách mạng.”

Câu hỏi 80. Một thành viên trong họ có quyền khởi kiện tranh chấp liên quan đến nhà thờ họ hay không?

Trả lời:

Nhà thờ có từ lâu đời hoặc nhà thờ do các thành viên trong họ đóng góp công sức và tiền của xây dựng nên là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của những người trong họ, nên không thể trở thành di sản của người trường thọ (hoặc của bất cứ cá nhân nào). Nếu có tranh chấp thì giải quyết theo nguyện vọng chung của các thành viên trong họ. Theo quy định của pháp luật thì họ không phải là chủ thể có tư cách pháp nhân[3].

Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 01/2020/NQ-HĐTP ngày 05/3/2020 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về tài sản chung của dòng họ đã quy định: “Thành viên dòng họ có quyền khởi kiện vụ án tranh chấp về tài sản chung của dòng họ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của dòng họ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự?

  1. CHIA DI SẢN THỪA KẾ

Câu hỏi 81. Trong hợp đồng tín dụng có ghi ‘’người thừa kế” là tên người vợ (hoặc người chồng) của người vay tiền. Vậy người có trách nhiệm trả nợ chỉ là người vợ (hoặc người chồng) có tên trong hợp đồng hay tất cả các thừa kế có nghĩa vụ trả tiền?

Trả lời:

Điều 615 BLDS năm 2015 về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại quy định:

  1. . Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
  3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết đề lại như người thừa kế là cá nhân.”

Như vậy, nếu hợp đồng có điều khoản xác định rõ “người thừa kế là người có trách nhiệm trả nợ thay người vay (hoặc hợp đồng dẫn

chiếu đến một điều khoản có nội dung tương tự) thì người kỵ với tư cách “người thừa kế phải trả nợ thay, kể cả họ có phải là vợ, chồng của người vay hay không.

Nếu người vợ hoặc chồng của người vay không ký vào hợp đồng này với tư cách “người thừa kế thì họ không phải chịu trách nhiệm riêng; họ chỉ chịu trách nhiệm cùng với các người thừa kế khác theo quy định chung về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (Điều 615 BLDS năm 2015 nêu trên).

Nếu hợp đồng không có điều khoản nêu rõ trách nhiệm trả nợ thay của “người thừa kế”, người ký tên dưới mục “người thừa kế không phải là vợ hoặc chồng của người vay thì họ (người ký tên, vợ hoặc chồng của người vay) cũng không phải trả nợ thay các người thừa kế khác. Đây là trường hợp hợp đồng quy định không rõ ràng nên việc giải thích hợp đồng theo hướng có lợi cho người yếu thế (bên vay).

Câu hỏi 82. Theo Án lệ số 06/2016/AL thì một trong những người thừa kế ở nước ngoài không rõ địa chỉ, Tòa án vẫn chia thừa kế theo pháp luật. Phần thừa kế của người nước ngoài đó có được xem là đã chia xong chưa? Có phải chịu án phí không? Ai là người phải nộp?

Trả lời:

Án lệ số 06/2016/AL đặt ra trong vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước ngoài, nếu Tòa án đã thực hiện ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của những người đó thì Tòa án vẫn giải quyết yêu cầu của nguyên đơn. Nếu xác định được di sản thừa kế, diện hàng thừa kế và người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì giải quyết việc chia thừa kế cho nguyên đơn theo quy định của

pháp luật. Phần tài sản thừa kế của những người vắng mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những người sống trong nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt.

Người quản lý di sản của người vắng mặt có quyền và nghĩa vụ của người quản lý tài sản theo quy định tại Điều 617, Điều 618 và Điều 66, Điều 67 BLDS năm 2015. Do vậy, người được giao quản lý di sản của người vắng mặt có nghĩa vụ nộp án phí phần mà họ quản lý.

Sau này, nếu có tranh chấp về di sản thừa kế của người vắng mặt là tranh chấp giữa người quản lý di sản với người thừa kế ở nước ngoài (kể cả tranh chấp về án phí) mà không phải giải quyết lại vụ án chia thừa kế.

Lưu ý: Quy định về giải quyết vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thuộc diện thừa kế vắng mặt không rõ địa chỉ đã được mở rộng hơn, được pháp điển hóa tại Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của HĐTP TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án (khoản 3 Điều 6).

Câu hỏi 83. Trường hợp chia thừa kế quyền sử dụng đất, mỗi kỷ phần thừa kế được chia có diện tích đất nhỏ hơn diện tích tối thiểu được phép tách thửa theo Quyết định của ủy ban nhân dân thì Tòa án cố chia theo diện tích đất nhỏ hơn diện tích tối thiểu được phép tách thửa không? Tòa án có thể chia cho hai hay nhiều người sử dụng chung để đảm bảo điều kiện tách thửa không?

Trả lời:

Tách thửa là một quy định về quản lý hành chính. Tuy nhiên, việc chia thừa kế cũng phải bảo đảm không trái quy định về tách thửa.

 

Khoản 2 Điều 143 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Căn cứ vào quỹ đất của địa phương và quy hoạch phát triển nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định hạn mức đất giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân để làm nhà ở tại nông thôn; diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở phù hợp với điều kiện và tập quán tại địa phương”.

Khoản 23 Điều 1 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai quy định: “ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng và điều kiện cụ thể tại địa phương để quy định cụ thể điều kiện tách thửa đất, điều kiện hợp thửa đất theo từng loại đất và diện tích tối thiểu được tách thửa đối với từng loại đất”.

Như vậy, căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương mà mỗi tỉnh khác nhau có thể có quy định về hạn mức tối thiểu được phép tách thửa khác nhau và được quy định tại quyết định của UBND cấp tỉnh.

Tuy nhiên trên thực tế, nêu chia cho một người một diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu tách thửa nhưng để nhập vào thửa đất có sẵn của họ với cùng mục đích sử dụng thì không trái với quy định tách thửa.

Nhiều người đứng tên chung một thửa đất (sở hữu chung) cũng là trường hợp pháp luật đất đai cho phép. Do vậy, Tòa án có thể chia cho hai hay nhiều người sử dụng chung một thửa đất (cùng đứng tên) mà không trái với quy định tách thửa.

Câu hỏi 84. Chị À xin ly hôn anh B và yêu cầu chia tài sản trong đó có tài sản thừa kế mà mẹ anh B chết để lại. Anh B là con duy nhất của mẹ anh và chưa làm thủ tục nhận thừa kế. Nhà ở là nhà của mẹ anh B, do anh B là con duy nhất nên vợ chồng anh vẫn chung sống trên ngôi nhà đó nhưng anh chị không có đóng góp gì vào ngôi nhà này. Sau khi mẹ anh B chết, vợ chồng anh xây dựng thêm một gian nhà bếp. Vậy chị A có được hưởng ¥2 giá trị tài sản không hay chỉ được hưởng một phần công sức đóng góp.

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 thì một trong những nguồn tạo nên tài sản chung của vợ chồng là “tài sản do vợ, chồng tạo ra… trong thời kỳ hôn nhàn”. Như vậy, trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản do một bên tạo ra cũng là tài sản chung. Tuy nhiên, Điều 43 Luật HNGĐ năm 2014 quy định về tài sản riêng của vợ, chổng lại quy định “tài sản được thừa kế riêng” là tài sản riêng. Vì vậy, tài sản mà anh B được thừa kế là tài sản riêng của anh B chứ không thể coi là tài sản tạo ra trong thời kỳ hôn nhân để chia tài sản chung.

Sau khi mẹ anh B chết, vợ chồng anh B và chị A có xây dựng thêm một gian nhà bếp. Đây là phần tài sản mà vợ chồng anh B chị A phát triển thêm xác định được chứ không phải bị trộn lẫn trong tài sản mẹ anh B để lại. Tuy nhiên, làm nhà trong khuôn viên đất của cha mẹ thì giá trị quyền sử dụng đất vẫn là của cha mẹ, tài sản chung của anh B và chị A chỉ là phần kiến trúc xây dựng trên đất. Phần tài sản chung là công trình kiến trúc trên đất này (nhà bếp) có thể được chia cho vợ hoặc chồng nhưng phải thanh toán giá trị sử dụng đất cho bên có quyền thừa kế quyền sử dụng đất.

Ngoài tài sản chung của vợ chồng được chia như nêu ở trên, chị A còn có thể được chia một phần tài sản của gia đình nhà chồng.

Tại khoản 1 Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định về chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn là: “Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vỢ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình”. Quy định này xuất phát từ thực tế có nhiều người phụ nữ làm dâu ở chung với gia đình nhà chồng rất nhiều năm, có đóng góp công sức rất lớn nhưng không xác định được cụ thể tài sản mà họ đóng góp vào với gia đình.

Căn cứ vào quy định nêu trên, khi ly hôn chị A còn có thể được chia một phần trong khối tài sản của mẹ anh B để lại, trên cơ sở công sức đóng góp của chị A vào việc duy trì, phát triển khối tài sản đó. Cấn lưu ý là công sức tính cho chị A gồm cả công sức duy trì tài sản (chỉ giữ chủ không phát triển thêm được), lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất và công sức đóng góp của anh B cũng được coi là công sức đóng góp chung của vợ chồng với gia đình nhà chồng. Về chủ thể tố tụng thì anh B là người quản lý tòa n bộ di sản của mẹ anh để lại nên là người có nghĩa vụ trích chia tài sản cho chị A về phần công sức đóng góp với gia đình nhà chồng.

Câu hỏi 85. Năm 2006, anh H là con trai của bà B, bị Tòa án kết án về hành vi hành hạ mẹ đẻ là bà B (phạt cải tạo không giam giữ 06 tháng) nhưng đã được xóa án tích. Năm 2014, bà B chết, các con của bà khởi kiện vụ án chia thừa kế. Trường hợp này, anh H có được quyền hưởng di sản không? Vì sao?

Trả lời:

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 thì:

“Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhãn phẩm của người đó” thì không được hưởng di sản.

Theo quy định tại Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 1999, về xóa án tích thì: “Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án”.

Xóa án tích là chế định nhân đạo của Bộ luật Hình sự nhằm tạo điều kiện để người phạm tội sau khi đã chấp hành toàn bộ bản án được tái hòa nhập cộng đồng. Anh H đã được xóa án tích nên được xem như chưa bị kết án. Tuy nhiên, cần phải xác định được xóa án tích trước hay sau thời điểm mở thừa kế của bà B (năm 2014). Nếu sau thời điểm mở thừa kế của bà B (chính là thời điểm xác định quyền thừa kế) anh B mới được xóa án tích thì anh H không được hưởng thừa kế của bà B.

Theo Điều 64 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì các trường hợp đương nhiên được xóa án tích là:

‘T. Người được miễn hình phạt.

  1. Người bị kết án không phải về các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia hoặc về tội phạm chống phá hòa bình, chồng loài người và tội phạm chiến tranh nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau:
  2. a) Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo:
  3. b) Ba năm trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;
  4. c) Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;
  5. d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù trên mười lăm năm”.

Như vậy, nếu anh H đã thi hành án xong trước năm 2013 thì anh H đã được xóa án tích trước năm 2014 (trước thời điểm mở thừa kế của bà B) và anh H vẫn được quyền hưởng di sản của bà B.

Câu hỏi 86. Ông A chung sông với bà B từ năm 1970 tại Biên Hòa, có 01 con chung. Từ năm 1974, ông A chung sống với bà c tại Vũng Tàu, có 02 con chung. Từ năm 1975, bà B chung sống như vợ chồng với ông D. Năm 2010, ông A chết. Bà B và bà c có được quyền hưởng thừa kế của ống hay không?

Trả lời:

Ông A sống chung với bà B từ năm 1970, từ năm 1974 ông A sống chung với bà c nên quan hệ giữa ông A với bà B, ông A với bà c là quan hệ hôn nhân thực tế.

Tại điểm a Mục 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế quy định: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 ngày công bô danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước – đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chổng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”.

Năm 1975, bà B chung sống như vợ chồng với ông D nên quan hệ hôn nhân giữa ông A với bà B chấm dứt (trước ngày Nghị quyết số 76-CP ngày 25/3/1977 của Hội đồng Chính phủ về việc hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất cho cả nước có hiệu lực).

Do vậy, năm 2010, ông A chết thì chỉ có bà c có quan hệ hôn nhân với ông nên bà c có quyền hưởng thừa kế của ông A.

Câu hỏi 87. Ổng M có đăng ký kết hôn với bàN tại Hà Nội từ năm 1955; có 02 con chung; mua được căn nhà 15 phố X. Từ năm 1959, ông M chung sống với bà L; có 01 con chung; mua được căn nhà 12 phố Y. Năm 2011, ông M chết. Ngôi nhà 15 phố X có giá 15 tỷ đồng. Ngôi nhà 12 phố Y có giá 12 tỷ đồng. Bà N và bà L có được hưởng thừa kế của ông M ngang nhau đối với hai ngôi nhà hay không?

Trả lời:

Ồng M đàng ký kết hôn với bàN từ năm 1955, ông M chung sống với bà L từ năm 1959. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông M với bà N, ông M với bà L đều trước ngày Luật HN&GĐ năm 1959 có hiệu lực (ngày 13/01/1960) nên cả hai quan hệ hôn nhân trên đều được công nhận là hôn nhân hợp pháp (trường hợp một người có nhiều vợ).

Điều 15 Luật HN&GĐ năm 1959 quy định: “ Vợ và chồng đểu có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Do vậy, căn nhà 15 phố X và căn nhà 12 phố Y đều là tài sản chung vợ chồng.

Thực tế, có quan điểm cho rằng, phải xác định phần của mỗi người theo từng mối quan hệ nên việc hưởng thừa kế của bàN và bà L không giống nhau.

Thực tiễn xét xử xác định hai bà được hưởng thừa kế của ông M ngang nhau theo quy định của Điều 15 Luật HN&GĐ năm 1959.

Lưu ý: Khi giải quyết vụ việc này cần làm rõ thời điểm mua căn nhà 15 phố X và căn nhà 12 phố Y năm nào? Các con có công sức, đóng góp gì khi mua 02 căn nhà nêu trên hay không để xác định di sản của ông M để lại còn lại bao nhiêu.

Câu hỏi 88. Ông Q có tổ chức đám cưới, không có đăng ký kết hôn với bà D tại Thái Bình từ năm 1961. Ông Q và bà D có 03 con chung. Từ năm 1982, ông Q chung sống với bà X tại Hà Nội, không có con chung. Năm 1990, ông Q được mua nhà đang thuê của nhà nước. Hợp đồng thuê chỉ có ông Q đứng tên bên thuê. Năm 2011, ông Q chết. Bà X có được hưởng thừa kế của ông Q về ngôi nhà hay không?

Trả lời:

Ông Q có tổ chức đám cưới từ năm 1961 (mặc dù không có đăng ký kết hôn với bà D tại Thái Bình), có 03 con chung nên quan hệ hôn nhân giữa ông Q và bà D là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Khi quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa ông Q và bà D chưa chấm dứt thì ông Q chung sống với bà X. Quan hệ hôn nhân giữa ông Q và bà X không hợp pháp (không thuộc trường hợp một người có nhiều vợ). Ông Q và bà X không được công nhận là vợ chồng.

Do bà X không có quan hệ hôn nhân hợp pháp với ông Q nên bà X không được hưởng thừa kế của ông Q vê ngôi nhà trên theo quy định tại Điều 676 BLDS năm 2005.

Lưu ý:

– Năm 1990, ông Q được mua nhà đang thuê của nhà nước sau khi Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực (ngày 03/01/1987) nên ngôi nhà có thể là tài sản riêng của ông Q hoặc là tài sản chung của ông Q và bà D.

– Ông Q mua nhà năm 1990 (khi ông Q chung sống với bà X) nên khi giải quyết vụ án mặc dù bà X không được hưởng thừa kế của ông Q về ngôi nhà trên nhưng cần xem xét bà X có công sức, đóng góp gì khi mua ngôi nhà trên hay không để xác định di sản để lại của ông Q.

Câu hỏi 89. Ông T chung sống như vợ chồng với bà Ỵ từ năm 1975 tại Hải Dương, không đăng ký kết hôn; có 01 con chung. Từ năm 1983, ông T chung sống với bà L, có 02 con chung. Năm 1995, ông TƠ được thừa kế của cha mẹ ngôi nhà X. Năm 2010, bà Y chết. Năm 2015, ông T chêt. Bà L có được hưởng thừa kế của ông T về ngôi nhà hay không?

Trả lời:

Theo quy định tại Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 thì việc ông T sống chung như vợ chồng với bà Y từ năm 1975 (trước ngày 03/01/1987, ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực) không đăng ký kết hôn vẫn được coi là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà L không hợp pháp, không được công nhận bởi vì khi ông T chung sống với bà L từ năm 1983, khi đó quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa ông T và bà Y chưa chấm dứt, ông T không thuộc trường hợp một người được có nhiều vợ.

Năm 1995, ông T được thừa kế của cha mẹ ngôi nhà X. Theo quy định tại Điều 16 Luật HN&GĐ năm 1986 thì ngôi nhà X là tài sản riêng của ông T do được hưởng thừa kế của cha mẹ.

Sau khi bàY chết năm 2010, quan hệ hôn nhân giữa bà Y và ông T chấm dứt. Nếu bà L và ông T tiếp tục sống chung, có đăng ký kết hôn thì pháp luật công nhận quan hệ giữa ông T và bà L là vợ chồng; khi đó bà L được hưởng thừa kế của ông T về ngôi nhà X theo quy định của pháp luật. Nếu bà L và ông T sống chung nhưng không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; khi đó bà L không được hưởng thừa kế của ông T về ngôi nhà X.

(Điểm 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật HN&GĐ năm 2000).

Lưu ý: Khi giải quyết trường hợp sau khi bàY chết năm 2010, bà L và ông T sống chung nhưng không đăng ký kết hôn. Mặc dù bà L không được được hưởng thừa kế của ông T về ngôi nhà X nhưng cần xem xét công sức quản lý, phát triển thêm giá trị ngôi nhà X của bà L (nếu có).

Câu hỏi 90. Bà M tổ chức đám cưới với ông D năm 1953 tại Huế, có 01 con chung. Năm 1954, bà M là cán bộ tập kết ra miền Bắc. Năm 1965, bà M kết hôn với ông Q, có đăng ký kết hôn, có 02 con chung. Năm 1976, bà M trở vẽ Huế, ông D vẫn chưa kết hôn với người khác. Bà M vẫn có quan hệ như vợ chồng với cả ông D và ông Q. Năm 2010 bà M chết. Ông D có quyền hưởng thừa kế của bà M không?

Trả lời:

Huế hiện nay thuộc miền Trung.

Tuy nhiên, do bối cảnh lịch sử đặc biệt những năm 1954 (Hiệp định Giơ-ne-vơ chia cắt đất nước thành hai miền Nam, Bắc) và tình hình thực tế của các gia đình (có người phải tập kết ra Bắc); để giải quyết quan hệ hôn nhân của bà M với ông D và ông Q cần xem Huế thuộc miền Nam nước ta thời bấy giờ (phía Nam từ vĩ tuyến 17) và áp dụng Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của TANDTC hướng dẫn giải quyết các việc tranh chấp về hôn nhân gia đình của cán bộ, bộ đội có vợ, chồng trong Nam tập kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác (Thông tư số 60/TATC).

Cách áp dụng nêu trên cũng phù hợp với phương hướng, quy định được nêu ra trong Thông tư số 60/TATC:

“Việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình của cán bộ, bộ đội đã có vỢ có chồng ở trong Nam, tập kết ra Bắc lấy vợ lấy chồng khác là loại việc mang tính chất đặc biệt. Nhân dân ta vừa trải qua một cuộc chiến tranh 144

ác liệt, kéo dài. Đất nước bị chia cắt hơn hai chục năm ròng. Nhiêu gia đình vỢ chồng sông xa nhau quá lâu, không biết tin tức của nhau, hoặc tin tức không xác thực. Do đó mà trong cuộc sống gia đình sinh ra nhiều cảnh éo le phức tạp. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nhiều gia đình đang trong quá trình thu xếp những vấn đề rắc rối trong quan hệ vỢ chồng, và ở nhiều địa phương đã xảy ra những việc tranh chấp phải đưa đến Tòa án giải quyết

Vì vậy khi giải quyết việc tranh chấp về hôn nhân, gia đình của các đối tượng nói trên, các Tòa án nhân dân cắn thấy đầy đủ tính chất đặc biệt của loại tranh chấp này. Cần thấy đây là hậu quả của chiến tranh, một vấn đề xã hội phức tạp, vấn để tình cảm, hạnh phúc gia đình nhất là của các người vợ và con cái. Khi giải quyết phải xem xét một cách thận trọng, thấu tình đạt lý. Phải vận dụng những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình cho sát với đặc điểm của loại tranh chấp nói trên, hết sức tránh áp dụng pháp luật một cách máy móc”.

Theo quy định của Thông tư số 60/TATC nêu trên thì quan hệ hôn nhân giữa bà M và ông D từ năm 1953 (trước Luật HN&GĐ năm 1959); quan hệ hôn nhân giữa bà M và ông Q có đăng ký kết hôn đều được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Do vậy, khi bà M chết năm 2010 thì ông D vẫn có quyền hưởng thừa kế của bà M.

Câu hỏi 91. Người được thi hành án có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế mà người phải thi hành án được hưởng theo pháp luật để đảm bảo cho việc thi hành án hay không?

Trả lời:

Người được thi hành án không phải là người thừa kế nên không có quyền, nghĩa vụ trực tiếp đối với di sản thừa kế. Do vậy, người được thi hành án không có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế.

Đế đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án thì tại Điều 620 BLDS năm 2015 quy định về việc từ chối nhận di sản:

  1. . Người thừa kế có quyển từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
  2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biêt.
  3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”.

Lưu ý:

– Quy định về “phân chia tài sản chung để thi hành án” tại khoản 9 Điều 27 BLTTDS năm 2015 là trường hợp không có tranh chấp (việc dân sự) và người yêu cầu là đống chủ sở hữu hoặc sử dụng.

– Trường hợp có tranh chấp thì phải khởi kiện theo khoản 12 Điều 26 BLTTDS năm 2015. Đây là tranh chấp “liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự’.

– Người được thi hành án chỉ có quyển phát hiện tài sản của người bị thi hành trong khối tài sản chung và yêu cầu kê biên, phát mại.

– Quyền tài sản của người thừa kế phát sinh ở thời điểm mở thừa kế nên di sản chưa chia cũng là tài sản chung của người thừa kế bị thi hành án.

– Những người thừa kế khác có quyền yêu cầu phân chia trong thời hạn mà Luật Thi hành án dân sự quy định.

Câu hỏi 92. Vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất trước đấy đã được ủy ban nhân dân giải quyết bác đơn của người có đơn yêu cầu trả lại đất. Sau khi người yêu cầu chêt, người thừa kế của người có đơn yêu cầu tiếp tục có đơn khởi kiện người đang quản lý, sử dụng đất trả lại đất. Tòa án có được thụ lý, giải quyết đơn khởi kiện của người thừa kế không?

Trả lời:

Điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định về trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện quy định: “Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại”.

Theo quy định nêu trên thì đây là trường hợp phải trả lại đơn vì “sự việc” đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Lưu ý: Có quan điểm cho rằng, nguyên đơn cũ thì mới là sự việc cũ, còn nguyên mới thì là sự việc mới. Đây là quan điểm sai. Tham khảo thêm Án lệ số 38/2020/AL về việc không thụ lý yêu cầu đòi tài sản đã được phân chia bằng bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án không thụ lý vụ án mới, trả lại đơn khởi kiện vì nội dung khởi kiện đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật (cho dù khác nguyên đơn).

Tuy nhiên, theo quy định của khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (Khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án) thì trường hợp tại Câu hỏi, nếu không đồng ý với Quyết định

của UBND, người thừa kế có thể tiến hành khởi kiện ra Tòa theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính (kiện hành chính) và Tòa sẽ thụ lý, giải quyết, chứ không thể kiện theo pháp luật về tố tụng dân sự như đã phân tích ở trên.

Câu hỏi 93. Về xác định quan hệ nhân thân khi giải quyết các vụ án thừa kế, khi Tòa án đến xác minh ở chính quyền địa phương về quan hệ giữa những người thừa kế đối với người để lại di sản, chính quyền địa phương từ chối xác minh hoặc trả lời là không nắm rõ, nên khó khăn trong giải quyết các vụ án. Trường hợp này phải giải quyết như thế nào?

Trả ỉời:

Trong vụ án dân sự nói chung thì nghĩa vụ chứng minh là của I đương sự. Điều 91 BLTTDS năm 2015 quy định:

  1. u Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cẩu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây:
  2. a) Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
  3. b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.

Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật vẽ lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;

  1. c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
  2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đồi đó.
  3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

  1. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”.

Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do BLTTDS quy định theo quy định tại Điều 6 BLTTDS năm 2015.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của minh có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, theo quy định của BLTTDS và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trường

hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát.

Trong vụ án thừa kế, việc xác định quan hệ nhân thân, quan hệ giữa những người thừa kế đối với người để lại di sản thường thông qua đơn khởi kiện, lời khai, trình bày và các tài liệu, chứng cứ khác do đương sự, cơ quan, tổ chức cung cấp, do sự thừa nhận của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Câu hỏi 94. Đối với vụ án tranh chấp thừa kế có tài sản đang thế chấp ở Ngân hàng, Tòa án đã gửi thông báo thụ lỵ và mời người đại diện Ngân hàng đến làm việc. Ngân hàng chỉ cử nhân viên hoặc người ủy quyền lại ủy quyền lại cho người khác. Tòa án có thể coi là Ngân hàng vắng mặt không có lý do chính đáng hay không?

Trả lời:

Cần xác định rõ Ngân hàng tham gia tố tụng với tư cách là đương sự trong vụ án hay chỉ mời đến làm việc. Nếu Ngân hàng là đương sự trong vụ án thì cần xem xét người đại diện đó có hợp pháp hay không (đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền). Nếu Ngân hàng không cử người đại diện hợp pháp thì coi như vắng mặt và Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Lưu ý: Việc tống đạt phải hợp pháp, giải quyết vắng mặt đúng quy định của pháp luật.

Câu hỏi 95. Trong vụ án tranh chấp về thửa kê mà có tranh chấp về bất động sản thì Tòa án nơi có bất động sản hay Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết?

Trả lời:

Khoản 5 Điều 26 BLTTDS năm 2015 quy định tranh chấp thừa

kế là một trong những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 quy định: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”. Mặc dù, điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Tuy nhiên, vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế có tranh chấp về bất động sản có tính chất đặc thù, khác với tranh chấp bất động sản thông thường khác. Bởi lẽ, trong vụ án tranh chấp thừa kế có thể tranh chấp nhiều nội dung như: Tranh chấp di sản thừa kế (yêu cầu xác định di sản trong đó có bất động sản có phải là di sản thừa kế hay không, chuyển nhượng, tặng cho người khác…), tranh chấp về di chúc (yêu cầu công nhận hay không công nhận di chúc, chia thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật…), tranh chấp hàng thừa kế, nghĩa vụ của người chết để lại… trong đó tranh chấp về bất động sản chỉ là một trong những nội dung cần phải giải quyết trong vụ án tranh chấp về thừa kế. Để giải quyết vụ án dân sự tranh chấp về thừa kế, ngoài việc chứng minh của đương sự thì Tòa án phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để xác định chính xác hàng thừa kế, di sản thừa kế để chia theo quy định của pháp luật hoặc theo di chúc. Với những yêu cầu trong giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc sẽ là nơi có điều kiện tốt nhất để giải quyết tranh chấp. Trên thực tế, tại khoản 4 Điều 8 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTP TANDTC đã hướng dẫn đối với vụ án tranh chấp về thừa kế nếu có tranh chấp về bất động sản thì thắm quyền giải quyết là Tòa án nơi cư trú, làm việc của bị đơn.

Do đó, trong vụ án tranh chấp về thừa kế mà có tranh chấp về bất động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015.

Câu hỏi 96. Trường hợp Ngân hàng không tham gia tố tụng trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế để giải quyết khoản nợ của người để lại di sản vì chưa đến hạn trả nợ, Tòa án xét xử vắng mặt Ngân hàng thì Tòa án có giải quyết về khoản nợ người để lại di sản với Ngân hàng hay không?

Trả lời:

Trước hết cần phải hiểu việc xác định tư cách đương sự với việc xét xử vắng mặt là hai việc khác nhau. Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế, người để lại di sản thừa kế có khoản nợ với Ngân hàng (trước khi người đó chết) chưa được giải quyết thì Tòa án cần xác định Ngân hàng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế căn cứ Điều 615 BLDS năm 2015 quy định về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Mặc dù, các khoản nợ của người chết với Ngân hàng chưa đến hạn nhưng những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại phát sinh từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người có tài sản chết). Nếu không giải quyết nghĩa vụ đối với tài sản của người chết để lại thì không giải quyết triệt để vụ án, không đúng quy định tại Điều 615 BLDS năm 2015 nêu trên.

Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của Ngân hàng căn cứ khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, những việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.

Quyển, nghĩa vụ của Ngân hàng được xác định theo quy định tại Điều 73 BLTTDS năm 2015.

Việc Tòa án giải quyết vắng mặt với việc Tòa án không giải quyết là hai việc khác nhau, hậu quả khác nhau. Khi xác định Ngân hàng là đương sự trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) thì việc xét xử vắng mặt Ngân hàng căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 BLTTDS năm 2015. Còn việc Tòa án có giải quyết hay không giải quyết khoản nợ của người để lại di sản với Ngân hàng phải căn cứ vào nội dung yêu cầu của các đương sự. Nếu không có ai yêu cầu (Ngân hàng hoặc người thừa kế không yêu cầu) thì Tòa án không thể giải quyết theo quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2015.

Thực tế, trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế mà có khoản nợ của người để lại di sản với Ngân hàng thì Ngân hàng thường có yêu cầu thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại để thu hồi nợ.

Câu hỏi 97. Trường hợp đã có bản án chia thừa kế, nay đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, thì có thể khởi kiện để đòi lại tài sản được chia theo bản án chia thừa kế trước dày hay không?

Trả lời:

Điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định về trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện quy định: “Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu

thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại”.

Trường hợp này, vụ án chia thừa kế đã được giải quyết bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật nên theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 nêu trên, Tòa án quyết định trả lại đơn khởi kiện. Đương sự không còn quyền khởi kiện lại để yêu cầu chia thừa kế.

Di sản thừa kế đã được chia cho người thừa kế theo bản án đã có hiệu lực. Sau khi hết thời hiệu yêu cầu thi hành bản án chia thừa kế có hiệu lực pháp luật, nếu đương sự yêu cầu đòi lại tài sản thì đây là một quan hệ mới, không phải là yêu cầu chia thừa kế. Trường hợp này không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 nêu trên. Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật.

Ghi chú: Quy định của pháp luật không được khởi kiện lại khi vẫn là “sự việc” cũ (điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015). Vì vậy, có quan điểm cho rằng đòi lại tài sản chính là việc chia thừa kế nên đã đình chỉ việc giải quyết, trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, trường hợp này là sự việc mới, đòi lại tài sản chứ không phải là chia thừa kế; thực tiễn xét xử đã chấp nhận thụ lý, giải quyết việc mới.

Câu hỏi 98. Trường hợp không tìm thấy địa chỉ của một hay một số người thừa kế thì có thể khởi kiện chia thừa kế được hay không?

Trả lời:

Điều 227 BLTTDS năm 2015 quy định về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:

“1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Tòa án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về việc hoãn phiên tòa.

  1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa, nếu không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì xử lý như sau:
  2. a) Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật;
  3. b) Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ;
  4. c) Bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. BỊ đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật;
  5. d) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng

mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật;

đ) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ”.

Tòa án vẫn tiến hành thủ tục xét xử khi đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vắng mặt tại phiên tòa trong các trường hợp quy định tại Điều 228 BLTTDS năm 2015.

Thực tế cho thấy, vụ án tranh chấp thừa kế thường diễn ra sau khi mở thừa kế khá lâu, khi nguyên đơn khởi kiện vụ án chia di sản thừa kế thì trong nhiều trường hợp, nguyên đơn, Tòa án đã áp dụng các biện pháp thu thập tài liệu nhưng không tìm thấy địa chỉ của bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trước đây, khi Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án dân sự năm 1989 có hiệu lực thì những trường hợp không xác định được địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án tranh chấp thừa kế, các tòa án đều xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phần thừa kế của họ giao cho một thừa kế quản lý. Sau khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực, theo Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS và Công văn số 109/KHXX ngày 30/6/2006 của TANDTC về việc xử lý các trường hợp không biết địa chỉ của người bị kiện thì trong các vụ án dân sự nói chung, vụ án thừa kế nói riêng, khi không xác định được địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì các tòa án trả lại đơn khởi kiện, nếu đã thụ lý thì đình chỉ giải quyết vụ án. Việc này làm cho quyền và nghĩa vụ của các đương sự không được đảm bảo, không giải quyết triệt để vụ án.

Trước thực tế đó, TANDTC đã ban hành Án lệ số 06/2016/AL để giải quyết trường hợp vụ án tranh chấp thừa kế có người thuộc diện thừa kế ở nước ngoài, nếu Tòa án đã thực hiện ủy thác tư pháp,

thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn không xác định được địa chỉ của những người đó thì Tòa án vẫn giải quyết yêu cầu của nguyên đơn; nếu xác định được di sản thừa kế, diện hàng thừa kế và người để lại di sản thừa kế không có di chúc thì giải quyết việc chia thừa kế cho nguyên đơn theo quy định của pháp luật; phần tài sản thừa kế của những người vắng mặt, không xác định được địa chỉ sẽ tạm giao cho những người sống trong nước quản lý để sau này giao lại cho những thừa kế vắng mặt. Sau đó, trường hợp này được pháp điển hóa tại khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của HĐTP TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

Như vậy, trong trường hợp không tìm thấy địa chỉ của một hay một số người thừa kế thì vẫn có thể khởi kiện chia thừa kế. Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung và giải quyết phần di sản của người không tìm thấy địa chỉ theo quy định nêu trên.

Câu hỏi 99. Ông A kết hôn với bà B có 4 con chung. Sau khi bà B chết được một thời gian thì ông A chung sống với bà c không đăng ký kết hôn. Ông và bà c có sử dụng chung một khối tài sản gồm: nhà, đất thổ cư, đất nông nghiệp, đất trồng rừng. Nay ông A chết, các con riêng của ông A cho rằng những tài sản trên là của ông A, nên đã chiếm nhà đất nêu trên. Bà c khởi kiện yêu cầu các con riêng của ông A phải trả lại cho bà tòa n bộ tài sản. Trường hợp này nên xác định mối quan hệ pháp luật là loại tranh chấp gì?

Trả ỉời:

Vụ án có những quan hệ tranh chấp gì là từ yêu cầu của đương sự. Yêu cầu của đương sự bao gồm yêu cầu của nguyên đơn, phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tất cả các yêu cầu đó tạo nên các quan hệ tranh chấp trong vụ án và củng là phạm vi giải quyết của vụ án. Vụ án có thể chỉ có một quan hệ tranh chấp nhưng cũng có thể có nhiều quan hệ tranh chấp. Xác định đúng quan hệ tranh chấp là để xác định phạm vi xét xử, áp dụng đúng pháp luật, mà trước hết là xác định có những đương sự nào trong vụ án. Xác định đúng quan hệ tranh chấp là đặt tên đúng các yêu cầu của đương sự chứ không phải là tùy tiện mở rộng phạm vi hay thu hẹp phạm vi yêu cầu của đương sự.

Từ ví dụ trên có thể có những tình huống cụ thể như sau:

  1. Bà c cho rằng bà là chủ duy nhất của khối tài sản mặc dù ông A đã từng sử dụng chung nên đòi những người đang chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của bà trả lại tài sản (và không có phản tố hay yêu cầu độc lập nào khác) thì vụ án chỉ có quan hệ tranh chấp là đòi lại tài sản, bị đơn chỉ là những người đang trực tiếp chiếm hữu tài sản (giả sử có 02 trong số 04 con của ông A chiếm giữ tài sản), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là những người đang cùng chiếm giữ (như vợ của 02 người đang chiếm giữ). Nêu Tòa án xác định yêu cầu của bà c là đúng thì chấp nhận buộc 02 người con của ông A và vợ của 02 người con này trả lại tài sản cho bà c. Nếu Tòa án xác định yêu cầu của bà c không hoàn toàn đúng thì bác yêu cầu của bà c (bác yêu cầu công nhận là chủ duy nhất).
  2. Nêu bà c cho rằng khối tài sản đang bị chiếm là của chung giữa bà với ông A, yêu cầu được trả lại phần của bà thì vụ án đã trở nên có 02 quan hệ tranh chấp là quan hệ tranh chấp đòi lại tài sản và quan hệ tranh chấp chia tài sản chung. Trong trường hợp này các thừa kế của ông A phải tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chứ không phải chỉ có những người đang trực tiếp chiếm giữ tài sản).
  3. Trong trường hợp bà c vừa yêu cầu đòi lại tài sản thuộc phần do bà làm chủ vừa yêu cầu chia di sản thừa kế của ông A (hoặc bà c không

yêu cầu chia thừa kế nhưng các con của ông A lại có phản tố chia thừa kế) thì vụ án đã trở nên có 03 quan hệ tranh chấp (thậm chí còn có thể tranh chấp về việc bà c có quan hệ hôn nhân hợp pháp với ông A hay không); đối tượng của vụ án có thể còn là những tài sản khác và có thể có thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

Như vậy, việc xác định quan hệ tranh chấp không phải chỉ là việc đặt tên cho vụ án và không phải mỗi vụ án luôn luôn chỉ có một quan hệ tranh chấp.

Câu hỏi 100. Di sản thừa kế là tài sản chung của vợ chồng, một người chết trước đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế. Xác định phần di sản đã hết thời hiệu thừa kế như thế nào?

Trả lời:

Trong vụ án chia thừa kế thông thường (không có phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện) thì để chia thừa kế, bước đầu tiên vẫn phải xác định di sản. Di sản thường không phải là toàn bộ khối tài sản có tranh chấp.

Ví dụ: Ông A và bà B có khối tài sản chung là nhà ở trên diện tích đất là 1.200m2. Ông bà có 02 con chung là anh X và chị Y. Năm 2005, ông A chết, bà B vẫn ở nhà đất trên với anh X. Năm 2010, chị Y khởi kiện yêu cầu được chia thừa kế của ông A.

Như vậy, khối tài sản có tranh chấp là nhà ở trên diện tích 1.200m2 đất. Thực tế, trong 1.200m2 đất đang sử dụng có 200m2 thuộc quy hoạch mở đường, chỉ có l.P m2 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng. Do đó, chỉ có nhà trên diện tích lOOm2 được định giá là 3 tỷ đồng. Chia tài sản chung giữa ông A và bà B, xác định được di sản của ông A là 1,5 tỷ đồng. Những người được thừa kế của ông A là bà B, anh X, chị Y nên mỗi kỷ phần thừa kế là 500 triệu đồng. Sau khi đã xác định được giá trị của kỷ phần, Tòa án mới chia hiện vật. Tòa án có thể

chia cho chị Y một diện tích hợp lý trong phạm vi l.P m2 tương ứng với giá trị 500 triệu đồng.

Giả sử ông A chết từ năm 1995, bà B chết năm 2005. Năm 2010, chị y khởi kiện yêu cầu được chia thừa kế của ông A, bà B thì vụ án thuộc loại có phần di sản đã hết thời hiệu khởi kiện. Trong trường hợp này, khác với vụ án thừa kế thông thường nêu trên, việc xác định di sản chính là xác định phần di sản còn thời hiệu khởi kiện. Xác định phần di sản còn thời hiệu khởi kiện cũng tương tự như việc xác định di sản là bóc tách ra những phần tài sản không thuộc diện chia thừa kế; và cũng chỉ là bóc tách về mặt giá trị, sau khi đã xác định được kỷ phần thừa kế mỗi người được chia thì mới chia hiện vật tương ứng với kỷ phần. Như vậy, phần di sản cỏn thời hiệu khởi kiện chỉ là phần di sản của bà B là 1,5 tỷ đồng (một nửa khối tài sản chung của bà B và ông A), có 02 thừa kế của bà B nên mỗi kỷ phần là 750 triệu đồng. Chị Y có quyền được chia hiện vật tương ứng với 750 triệu đồng.

Có một câu hỏi đã được đặt ra là phần di sản hết thời hiệu thuộc về ai? Tòa án có quyết định về phần di sản hết thời hiệu không? Đây là vấn đề pháp luật chưa có quy định cụ thể. Thông thường thì phần di sản hết thời hiệu vẫn tiếp tục do bị đơn quản lý. Tuy nhiên, về nguyên tắc, đã là phần không còn thời hiệu khởi kiện thì Tòa án không được giải quyết nên không được quyết định về phần này.

PHẦN THỬ HAI

MỘT SỐ TÌNH HUỐNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ

TÌNH HUỐNG SỐ 1

Cụ Hổng và vợ là cụ Hà có 02 người con chung là: Bà Thái (có chồng là ông Mã, có 02 con chung với ông Mã là anh Cầu, chị Thương); ông Bình (có vợ là bà Trà, có 02 con chung với bà Trà là chị Lục, anh Nam).

Cụ Hổng chết năm 2005. Ông Bình chết năm 2002.

Vợ chóng cụ Hồng có nhà với 300m2 đất thổ cư, được định giá là 3 tỷ đóng. Nhà hiện do bà Trà quản lý. Cụ Hà ở chung với bà Trà.

Ngày 01/02/2018, bà Thái khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Hồng theo pháp luật. Bà Trà không đóng ý chia thừa kế và xuất trình di chúc của cụ Hóng ngày 15/8/1998 có nội dung cụ Hồng cho ông Bình hưởng thừa kế toàn bộ nhà. Mọi người thừa nhận chữ viết và chữ ký trong di chúc là của cụ Hồng. Di chúc còn có ông Mã ký làm chứng.

Anh (chị) hãy:

  1. Xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế có còn không?
  2. Ong Mã, anh Cầu, chị Thương, chị Lục, anh Nam có phải người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không? Vì sao?
  3. Xác định diện thừa kế và kỷ phần thừa kế của mỗi người nếu chia thừa kế theo pháp luật.
  4. Di chúc có hiệu lực hay có hiệu lực một phần không? Vì sao?

HƯỚNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG SỐ 1:

  1. Thời hiệu khởi kiện vẫn còn vì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với bất động sản là 30 năm kể từ ngày mở thừa kế (Điều 623 BLDS năm 2015).
  2. Xác định những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

– Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là những người có thể được chia thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc. Chị Lục và anh Nam là người có quyền thừa kế thế vị cho ông Bình (ông Bình chết trước cha là cụ Hống) nên phải được tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

– Ồng Mã, anh Cấu, chị Thương không có quyển lợi, nghĩa vụ gì trong vụ án chia thừa kế này nên không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ông Mã chỉ tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng (về sự kiện lập di chúc của cụ Hống).

  1. Nếu chia thừa kế theo pháp luật:

– Diện thừa kế bao gồm: Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hồng là cụ Hà, bà Thái và thừa kế thế vị của ông Bình (chị Lục, anh Nam).

– Kỷ phần cụ thể sẽ là:

+ Di sản của cụ Hóng là 1/2 trị giá tài sản chung với cụ Hà:

3.000.000.000đ : 2 = 1.500.000.000đ

+ Kỷ phần của mỗi người thừa kế là:

1.500.000.000đ: 3 = 500.000.000d

+ Kỷ phần của mỗi người thừa kế thế vị (chị Lục, anh Nam) là:

500.000.000d : 2 = 250.000.000d

  1. Di chúc ngày 15/8/1998 của cụ Hồng vô hiệu toàn bộ.

Lý do di chúc vô hiệu toàn bộ vì người duy nhất được chỉ định hưởng thừa kế là ông Bình đã chết trước cụ Hồng. Căn cứ pháp luật là pháp luật ở thời điểm mở thừa kế (năm 2006) – Điều 667 BLDS năm 2005.

TÌNH HUỐNG SỐ 2

Cụ Cửu và vợ là cụ Long có 03 người con chung là: Ông Đồng (có vợ là bà Nai, có con chung với bà Nai là chị Bé), bà Hậu (có chồng là ông Tiền, có 02 con chung với ông Tiền là anh Hàm, chị Luông) và ông Châu.

Cụ Cửu chết năm 2008. Ông Đồng chết năm 2006. Bà Hậu chết năm 2010.

Cụ Cửu và cụ Long có một ngôi nhà trên đất thổ cư diện tích là 3OOm2 hiện do bà Nai và cụ Long quản lý. Nhà được định giá 4 tỷ đồng.

Ngày 15/3/2018, ông Châu khởi kiện yêu cầu bà Nai giao nhà cho ông theo di chúc của cụ Cửu. Di chúc của cụ Cự đề ngày 15/6/2007 có nội dung cho ông Châu hưởng thừa kế toàn bộ nhà. Di chúc do ông Tiền viết hộ cụ Cửu và ông Tiền ký làm chứng cùng với ông trưởng ấp.

Bà Nai không đồng ý giao nhà cho ông Châu với lý do bà không biết về di chúc của cụ Cửu. Anh Hàm có yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.

Anh (chị) hãy:

  1. Xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế có còn không?
  2. Ông Tiền, chị Bé, anh Hàm, chị Luông có phải người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không? Vi sao?
  3. Nếu di chúc vô hiệu thì chia thừa kế theo pháp luật cụ thể như thế nào?
  4. Di chúc có hiệu lực hay hiệu lực một phần? Vì sao? Nếu di chúc chỉ có hiệu lực một phần thì chia thế nào?

HƯỚNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG SỐ 2:

  1. Thời hiệu khởi kiện vẫn còn vì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với bất động sản là 30 năm kể từ ngày mở thừa kế (Điều 623 BLDS năm 2015).
  2. Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

– Ông Tiến chỉ là nhân chứng cho sự kiện lập di chúc của cụ Cửu. Tuy nhiên, ông Tiến lại là người thừa kế của bà Hậu, bà Hậu chết sau vụ Cửu niên được hưởng thừa kế của cụ Cửu. Do đó, theo pháp luật, ông Tiền là người được hưởng thừa kế chuyển tiếp nên vẫn là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

– Chị Bé thuộc diện thừa kế thế’ vị cho ông Đồng. Anh Hàm và chị Luôn là những người được hưởng thừa kế chuyển tiếp của bà Hậu. Do đó, chị Bé, anh Hàm, chị Luông đều là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

  1. Nêu chia thừa kế theo pháp luật (di chúc vô hiệu) thì kết quả là:

– Di sản thừa kế của cụ Cửu là Vi trị giá tài sản chung với cụ Long là: 4.000.000.000đ : 2 = 2.000.000.000đ

– Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Cửu gồm 04 thừa kế (cụ Long, ông Đóng, bà Hậu, ông Châu) nên mỗi thừa kế có kỷ phần là:

2.000.000.000đ : 4 = 500.000.000d

– Kỷ phần của ông Đồng đô chị Bé hưởng thế vị; kỷ phần của bà Hậu do ông Tiền, anh Hàm, chị Luông hưởng.

  1. Hiệu lực của di chúc:

– Di chúc có hiệu lực một phần đối với phần di sản của cụ Cửu (là trị giá tài sản chung của cụ Cửu với cụ Long). Di chúc thuộc loại di chúc bằng văn bản có người làm chứng theo quy định của Điều 656 BLDS năm 2005 (hai người làm chứng là ông Tiền và ông

trường ấp). Ông Tiên túy cũng là một người được hưởng thừa kế của cụ Cửu nhưng là thừa kế chuyển tiếp, ở thời điểm làm chứng, ông Tiên không phải là người được hưởng thừa kế theo pháp luật nên việc viết hộ di chúc và làm chứng không vi phạm quy định (không được làm chứng) của Điều 654 BLDS năm 2005.

– Di chúc có hiệu lực đối với phần di sản của cụ Cửu thì ông Châu được hưởng toàn bộ di sản của cụ Cửu 0/2 trị giá nhà là tài sản chung với cụ Long). Ông Châu được chia ‘/2 trị giá nhà bằng hiện vật hoặc bà Nai trả ông Châu bằng tiền là 2.000.000.000 đóng.

TÌNH HUỐNG SỐ 3

Cụ Quốc và vợ là cụ Tê’ có 05 người con chung là: Ông Anh (có vợ là bà Phi, có 02 con chung với bà Phi là anh Mã, chị Sinh), bà Nga, ông Trung, bà Nhật, bà Mỹ.

Cụ Quốc chết năm 1985. Cụ Tê’ chết năm 2005. Ông Anh chết năm 2018. Ông Trung cư trú ở Pháp. Bà Nhật cư trú ở Đức. Bà Mỹ đi Ca-na-đa từ năm 1980 đến nay không rõ địa chỉ.

Cụ Quốc và cụ Thể tạo lập được diện tích đất 2.000m2 tại quận 2, TP. Hồ Chí Minh. Vợ chóng ông Anh làm nhà ở trên đất này cùng cha mẹ từ năm 1980. Năm 2006, ông Anh được UBND quận 2 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất được định giá 15 tỷ đồng.

Ngày 15/01/2017, bà Nga khởi kiện chia thừa kế của cha mẹ đối với diện tích đất trên. Khi còn sống, ông Anh có lời khai nhất trí với lời khai của bà Nga về những người thừa kế, về nguồn gốc đất, nhưng không đồng ý chia thừa kế với lý do ông đã được cha mẹ cho thừa kế đất này. Ông Anh xuất trình di chúc đề ngày 01/7/2004 được đánh máy, có chữ ký cụ Tế, có nội dung giao toàn bộ diện tích đất 2.000m2 cho ông Anh hưởng thừa kế.

Ngày 20/02/2019, Tòa án cấp sơ thẩm có quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì nguyên đơn là bà Nga không xuất trình được chứng minh nhân dân và giấy tờ khác của những người thừa kế để chứng minh về diện thừa kế.

Anh (chị) hãy:

  1. Xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế có còn không? Vì sao?
  2. Bà Phi, anh Mã, chị Sinh, UBND quận 2 có phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không? Vì sao?
  3. Căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm có đúng không? Tại sao? Di chúc của cụ Tế có hiệu lực hay có hiệu lực một phần?
  4. Có căn cứ pháp lý nào để chia thừa kế khi không biết địa chỉ của bà Mỹ không? Xác định giá trị kỷ phần thừa kế cụ thể của mỗi đương sự.

HƯỚNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG số 3:

  1. Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế vẫn còn vì: Di sản thừa kế là bất động sản. Thời điểm khởi kiện là ngày 15/01/2017 nên áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế quy định tại BLDS năm 2015 (Điều 623) là 30 năm tính từ ngày 10/9/1990 (ngày có hiệu lực của Pháp lệnh Thừa kế).
  2. Ông Anh chết năm 2018 là chết sau cha (cụ Quốc) và chết sau mẹ (cụ Tế) nên ông Anh vẫn được hưởng thừa kế của cha mẹ. Ông Anh đã chết thì vợ (bà Phi) và các con (anh Mã, chị Sinh) được hưởng thừa kế của ông Anh. Như vậy, bà Phi, anh Mã, chị Sinh cũng là những người được hưởng thừa kế chuyển tiếp của cụ Quốc, cụ Tế nên cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tuy nhiên, do ông Anh đã chết nên bà Phi, anh Mã, chị Sinh đã là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Anh (bị đơn) nên không cần phải xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Anh đối với đất di sản thừa kế là sai nên cần phải hủy giấy chứng nhận này. Do đó, cơ quan cấp giấy là UBND quận 2 phải tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

  1. Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ việc giải quyết vụ án là không đúng vì: Giấy chứng minh nhân dân không phải là giấy tờ bắt buộc phải nộp trong vụ án thừa kế. Mặt khác, các đương sự đã khai nhận thống nhất, không có tranh chấp về diện thừa kế thì không cần phải có thêm chứng cứ chứng minh về diện thừa kế.

Di chúc đế ngày 01/7/2004 của cụ Tế không phải là di chúc viết mà là di chúc đánh máy nên phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp xã (áp dụng Điều 660 BLDS năm 1995 do không thuộc trường hợp tại Điều 658, Điều 659 BLDS năm 1995). Di chúc này không có các xác nhận nêu trên nên không có hiệu lực.

  1. Căn cứ pháp lý để chia thừa kế khi không biết địa chỉ của Bà Mỹ là Án lệ số 06/2016/AL. Theo Ăn lệ này thì vẫn chia thừa kế cho bà Mỹ và giao cho một người thừa kế khác quản lý.

Kỷ phần thừa kế được xác định như sau: Di chúc không hợp pháp nên phải chia thừa kế theo pháp luật. Di sản thừa kế và diện thừa kế từ thời điểm mở thừa kế của cụ Quốc (năm 1985) đến thời điểm mở thừa kế của cụ Tê’ (năm 2005) không thay đổi nên không cần chia thừa kế theo từng thời điểm. Do vậy, việc chia cụ thể là:

– Hàng thừa kế thứ nhất của cụ Quốc và cụ Tê gồm 05 người là ông Anh, bà Nga, ông Trung, bà Nhật, bà Mỹ nên kỷ phần của mỗi người là:

15.000.000.000đ : 5 = 3.000.000.000đ

– Kỷ phần của ông Anh được chia cho 03 thừa kế là bà Phi, anh Mã, chị Sinh, mỗi người là:

3.000.000.000đ: 3 = l.ooo.ooo.ooođ.

TÌNH HUỐNG Số 4

Cụ Đại và vợ là cụ Lan có 03 người con chung là: ỏng Đào (có vợ là bà Mai, có 02 con chung với bà Mai là anh Ban, chị Sen), bà Mận (có chồng là ông Hồng, có 02 con chung với ông Hồng là anh Cúc, chị Sim) và ông Lê.

Cụ Đại chết năm 1987. Cụ Lan chết năm 2006. Bà Mận chết năm 2004. Ông Lê không rõ địa chỉ.

Cụ Đại và cụ Lăn tạo lập được một nhà ở trên 300m2 đất thổ cư và một vườn cây ăn trái có diện tích 2.000m2. Ngày 01/3/2005, cụ Lan được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ đất thổ cư và đất vườn. Vợ chồng ông Đào bà Mai vẫn ở chung với cha mẹ và quản lý tài sản khi cha mẹ qua đời. Tài sản được định giá 9 tỷ 600 triệu đồng.

Ngày 15/02/2018, anh Cúc khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của cụ Đại, cụ Lan để lại. Ong Đào không đồng ý chia thừa kế với lý do ông được hưởng toàn bộ di sản của cha mẹ theo di chúc, ông Đào xuất trình di chúc để ngày 01/5/2005. Di chúc là văn bản đánh máy, có xác nhận của UBND xã là cụ Lan ký tên tại trụ sở UBND xã, có nội dung cho ông Đào hưởng thừa kế toàn bộ nhà và đất.

Anh (chị) hãy:

  1. Xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế có còn không?
  2. Bà Mai, anh Ban, chị Sen, ông Hồng, chị Sim, ai là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan? Vì sao? UBND huyện có phải tham gia tố tụng không?
  3. Di chúc của cụ Lan có hợp pháp hay hợp pháp một phần? Tại sao?
  4. Xác định giá trị kỷ phần thừa kế của mỗi đương sự trong vụ án.

HƯỚNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG SỐ 4:

  1. Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế vẫn còn vì: Di sản thừa kế là bất động sản. Thời điểm khởi kiện là ngày 15/02/2018 nên áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế quy định tại BLDS năm 2015 (Điều 623) là 30 năm tính từ ngày 10/9/1990 (ngày có hiệu lực của Pháp lệnh Thừa kế).
  2. Về những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

– Ông Hồng, chị Sim là những người được quyền hưởng thừa kế của bà Mận (thừa kế chuyển tiếp do bà Mận chết sau cha mẹ) nên là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

– Bà Mai là người cùng trực tiếp quản lý di sản thừa kế đang tranh chấp nên cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

– Anh Ban và chị Sen không phải người được hưởng thừa kế của cụ Đại, cụ Lan (không phải thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp), cũng không có quyền lợi, nghĩa vụ gì khác có thể phát sinh từ vụ án này nên không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Về địa vị tố tụng của UBND huyện: Nếu chấp nhận chia thừa kế là xác định tài sản thuộc tài sản chung của cụ Đại và cụ Lan, UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho riêng cụ Lan là sai. Do đó, việc giải quyết vụ án có thể phải hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên UBND huyện phải tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

  1. Di chúc ngày 01/5/2005 là di chúc đánh máy nhưng cụ Lan đã ký và có chứng nhận của UBND xã nên về hình thức là một loại di chúc hợp pháp theo quy định tại Điều 660 BLDS năm 1995.

Tuy nhiên, tài sản được định đoạt trong di chúc là tài sản chung của cụ Đại và cụ Lan nên di chúc chỉ có hiệu lực đối với phần tài sản thuộc sở hữu của cụ Lan. Cụ thể phần tài sản của cụ Lan là một nửa tài sản chung và phần thừa kế mà cụ Lăn được hưởng cùng các thừa kế khác của cụ Đại.

  1. Việc chia thừa kế cụ thể như sau:

– Thừa kế mở lần thứ nhất (năm 1987):

+ Di sản thừa kế của cụ Đại là: 9.600.000.000đ: 2 = 4.800.000.000đ

+ Chia di sản của cụ Đại cho các thừa kế gốm 04 người là cụ Lan, ông Đào, bà Mận, ông Lê, mỏi kỷ phần là:

4.800.000.000đ : 4 = 1.200.000.000đ.

– Thừa kế mở lần thứ hai (năm 2006):

+ Di sản thừa kế của cụ Lan là:

4.800.000.000đ + 1.200.000.000đ = 6.000.000.000đ

Phần di sản của cụ Lan được chia theo di chúc ngày 01/5/2005 nên ông Đào đưởng hưởng toàn bộ di sản của cụ Lan là 6 tỷ dõng.

+ Phần di sản của bà Mận được chia cho các thừa kế của bà Mận là ông Hống, anh Cúc, chị Sim, mỗi người là:

1.200.000.000đ : 3 = 400.000.000d

Cụ Nguyễn và vợ là cục Lâm có 03 con chung là bà Hai, ông Ba, ông Tư. Năm 1954, cụ Nguyễn tập kết ra miền Bắc. Năm 1964, cụ Lâm lẫy chống khác. Năm 1975, cụ Nguyễn trở về miền Nam, chung sống với cụ Lê, không có con chung. Cụ Lê có các con riêng là bà Ly, ông Phượng.

Cụ Nguyễn được nhà nước giao căn nhà 63 Trần Quốc để ở. Các con chung của cụ Nguyễn với cụ Lâm và các con riêng của cụ Lê đều đã từng ở nhà 63 Trần Quốc. Cụ Lâm đã chết năm 2011. Cụ Lê đã chết năm 1982.

Ngày 09/6/1993, cụ Nguyễn làm “Giấy ủy quyền” có nội dung: Tôi ủy quyền cho con tôi là Ly thay mặt tôi khi còn sống và ủy quyền cho nó được trọn quyển giải quyết những việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ đối với căn nhà 63 Trần Quốc khi không may tôi qua đời.

Ngày 27/8/1995, cụ Nguyễn chết. Năm 1998, bà Ly có đơn xin mua nhà 63 Trần Quốc theo Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính Ị phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở. Bà Hai, ông Ba, ông Tư (đều không còn ở nhà 63 Trần Quốc) có đơn không đồng ý việc bán nhà cho bà Ly. Tải Biên bản giải quyết ngày 05/7/2001 (có chứng kiến và xác nhận của UBND phường) Bà Hai, ông Ba, ông Tư, bà Lý thống nhất thỏa thuận: “Đồng ý để bà Ly đứng tên mua căn nhà 63 Trần Quốc. Việc phân chia sau khi đã trừ đi những khoản chi phí nghĩa vụ đối với nhà nước, giá trị còn lại do chị em bàn bạc thỏa thuận, nếu không được thì giải quyết theo pháp luật”.

Ngày 09/10/2002, bà Ly được cấp Giấy chứng nhận sở hữu nhà. Tại đơn khởi kiện ngày 20/7/2010, bà Hai yêu cầu bà Ly phải trả 36 ngôi nhà cho các thừa kế của cụ Nguyễn. Sau nhiều lần xét xử,

ngày 15/7/2017, bà Hai có đơn yêu cầu chia thừa kế nhà 63 Trần Quốc theo pháp luật.

Bà Ly không đồng ý chia nhà vì cho rằng Giấy ủy quyển ngày 09/6/1993 của cụ Nguyễn là di chúc cho bà hưởng thừa kế toàn bộ nhà.

Anh (chị) hãy phân tích:

  1. Bà Hai khởi kiện chia nhà ngày 20/7/2010, khởi kiện chia thừa kế ngày 15/7/2017 có trong thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật không? Tại sao?
  2. Các con của cụ Nguyễn có quyền thừa kế quyền mua hóa giá nhà không? Thỏa thuận tại Biên bản giải quyết ngày 05/7/2001 có giá trị pháp lý không? Tại sao?
  3. Bà Ly có quyền lợi về ngôi nhà tranh chấp hay không? Có căn cứ để xác định tỷ lệ bà Lý được hưởng hay không?

HƯỚNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG số 5:

  1. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp về sở hữu không bị hạn chế nên khởi kiện đòi chia tài sản chung ngày 20/7/2010 là trong thời hiệu khởi kiện.

Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế vẫn còn vì: Đối tượng tranh chấp bất động sản. Thời điểm khởi kiện là ngày 15/7/2017 nên áp dụng quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015 là 30 năm kể từ ngày mở thừa kế.

  1. Quyền mua hóa giá nhà cũng là một quyền tài sản (có giá trị tài sản và dịch chuyển được) nên cũng là tài sản (Điều 163 BLDS năm 2005, Điều 105 BLDS năm 2015). Quyền mua hóa giá nhà là tài sản nên cũng là di sản thừa kế (Điều 634 BLDS năm 2005, Điều 612 BLDS năm 2015). Do đó, các con của cụ Nguyễn có quyền thừa kế quyền mua hóa giá nhà.

Biên bản giải quyết ngày 05/7/2001 có nội dung để bà Ly đứng tẻn mua hóa giá nhà 63 Trần Quốc để nhà trở thành tài sản chung của những người ký kết thỏa thuận. Về nội dung, thỏa thuận này không vi phạm điều cầm của luật, không vi phạm đạo đức xã hội, không xâm phạm quyền lợi của người khác nên phù hợp với quy định của pháp luật (Điều 2 và Điều 7 BLDS năm 1995, Điều 4 BLDS năm 2005, Điều 3 BLDS năm 2015). Về hình thức, không thuộc loại giao dịch phải có công chứng hay đăng ký nên có chứng nhận của UBND phường là đủ căn cứ hợp pháp. Do đó, thỏa thuận tại Biên bản giải quyết ngày 05/7/2001 là hợp pháp.

  1. Bà Ly không phải người thừa kế theo pháp luật của cụ Nguyễn. Bà Lý cũng không phải người thừa kế theo di chúc vì Giấy ủy quyền ngày 09/6/1993 không có nội dung của di chúc (không phải giao tài sản cho bà Ly sau khi cụ Nguyễn chết). Tuy nhiên, thỏa thuận tại Biên bản giải quyết ngày 05/7/2001 là hợp pháp nên bà Ly là đóng chủ sở hữu nhà 63 Trần Quốc.

Căn cứ để xác định tỷ lệ bà Lý được hưởng trong nhà 63 Trần Quốc là:

  1. Theo thỏa thuận tại Biên bản giải quyết ngày 05/7/2001, chi phí hóa giá nhà không tính vào tài sản chung nên chi phí này được trả cho bà Ly trước khi chia tài sản chung.
  2. Tỷ lệ mà bà Ly có thể được hưởng gián tiếp được các đồng chủ sở hữu thừa nhận là Vi giá trị nhà qua đơn khởi kiện ngày 20/7/2010, vì vậy, yêu cầu bà Lý trả cho các thừa kế của cụ Nguyễn Vỉ trị giá nhà 63 Trấn Quốc.

Nhà 24 Bến Chương, TP. Hồ Chí Minh thuộc sở hữu của cụ Văn và vợ là cụ Hóng. Cụ Nho đã thuê nhà này từ trước năm 1975. Năm 1978, cụ Văn đã giao nhà cho Nhà nước quản lý. Năm 1979, cụ Văn chết. Năm 1980, UBND đã có Quyết định số 1054/QĐ-UB trả lại nhà cho cụ Hồng sở hữu. Cụ Nho vẫn tiếp tục ở nhà 24 Bến Chương.

Cụ Hồng chết năm 2005. Cụ Nho chết năm 2000. Sau khi cụ Nhỏ chết, các con cụ Nho là ông Quốc, ông Hữu tiếp tục ở nhà này.

Năm 2012, ông Tâm và ông Đức là con cụ Văn, cụ Hồng khởi kiện đòi lại nhà. Ông Quốc và ông Hữu không đồng ý trả nhà và có đơn phản tố yêu cầu công nhận việc mua bán nhà giữa cụ Nhỏ và cụ Hồng. Ông Quốc và ông Hữu xuất trình văn bản có tiêu đề “Tờ nhượng nhà” lập ngày 14/12/1984 có nội dung cụ Hóng bán nhà 24 Bến Chương cho cụ Nho và đã nhận đủ tiền mua nhà là 3 triệu đồng. Ông Đức thừa nhận chữ viết trong Tờ nhượng nhà nêu trên là của ông nhưng đoạn có nội dung nhận tiến không phải chữ của ông. Ông Đức khai do mẹ ông (cụ Hóng) nợ tiền cụ Nho 30.000 đồng từ năm 1979 không có tiền trả nên phải viết giấy nhượng nhà nhưng thực tế không nhượng và cũng không nhận tiền.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định nhà của riêng cụ Không nên hợp đồng mua bán nhà là hợp pháp. Do đó, không chấp nhận yêu cầu đòi nhà của ông Tâm, ông Đức.

Tòa án cấp phúc thẩm xác định nhà thuộc sở hữu chung của cụ Văn và cụ Hóng, chỉ có cụ Hồng bán mà không có ý kiến của các thừa kế của cụ Văn nên hợp đồng mua bán nhà vô hiệu; do không xác định được số tiền đã nhận nên không thể giải quyết hậu quả của tuyên bố vô hiệu; chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà của nguyên đơn.

Anh (chị) hãy phân tích:

  1. Nhà 24 Bến Chương thuộc sở hữu riêng của cụ Hóng hay sở hữu chung của cụ Văn và cụ Hổng? Ông Tâm và ông Đức có quyền khởi kiện đòi nhà không? Thời hiệu khởi kiện có còn không?
  2. Áp dụng pháp luật nào để xem xét hợp đồng mua bán nhà ngày 14/12/1984? Hợp đồng này có thể công nhận hợp pháp không?
  3. Nếu xác định hợp đồng mua bán nhà vô hiệu và phải giải quyết hậu quả tuyên bố vô hiệu thì giải quyết thế nào? Có căn cứ để xác định tiến mua bán nhà đã trả không?

HƯỚNG XỬ LÝ TÌNH HUỐNG SỐ 6:

  1. Quyết định số 1054/QĐ-UB có nội dung trả lại nhà chỉ ghi tên cụ Hồng. Tuy nhiên, việc trả lại nhà 24 Bến Chương là trả lại nhà do Nhà nước quản lý theo chính sách về nhà ở, không phải việc cấp nhà cho một đối tượng đặc biệt hoặc tặng cho nhà cho một số đối tượng đặc biệt. Do đó, đây là việc trả lại quyền sở hữu nhà cho chủ cũ. Chủ nhà cũ là cụ Văn và cụ Hồng. Thực tiễn xét xử xác định nhà sau khi được trả lại dù chỉ ghi tên một người thì vẫn thuộc sở hữu của tất cả chủ cũ. Vì vậy, nhà 24 Bến Chương sau khi được trả lại vẫn thuộc quyền sở hữu chung của cụ Văn và cụ Hồng.

Ông Tâm và ông Đức là các thừa kế hàng thứ nhất của chủ nhà là cụ Văn, cụ Hóng nên có quyền khởi kiện đòi lại tài sản mà họ cho rằng thuộc di sản thừa kế mà họ được hưởng. Đây không phải là tranh chấp thừa kế, không áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế (theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP). Việc kiện đòi lại tài sản khởi kiện vào năm 2012 không bị hạn chế thời hiệu (quy định tại BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011).

  1. Hợp đồng mua bán nhà ngày 14/12/1984 là giao dịch về nhà ở trước ngày 01/7/1991 nên pháp luật áp dụng là Nghị quyết số 58/1998/ NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991.

Theo quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 thì trường hợp hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật nhưng nếu đã trả tiền nhà (trả đủ hoặc một phán) hoặc đã giao nhà thì hợp đóng vẫn được công nhận hợp pháp trừ trường hợp vi phạm điều cấm theo quy định của BLDS (năm 1995). Theo quy định của BLDS năm 1995 thì cụ Hống không được một mình định đoạt toàn bộ tài sản chung (Điều 2, Điều 237 BLDS năm 1995). Do đó, hợp đồng mua bán nhà ngày 14/12/1984 vẫn vô hiệu.

  1. Hợp đồng vô hiệu thì các bên trở lại tình trạng ban đầu. Việc giải quyết hậu quả tuyên bố vô hiệu căn cứ quy định tại Điều 146 BLDS năm 1995 và Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình. Theo đó, việc trả lại tiền phải bao gồm chênh lệch giá giữa số tiền đã giao với giá nhà xác định ở thời điểm xét xử, căn cứ vào mức độ lỗi và tỷ lệ tiền đã trả.

Về việc xác định tiến đã trả: Nếu không có căn cứ khác thì lời khai của ông Đức về giao dịch mua bán là chứng cứ chứng minh về tiên đã trả. Ông Đức khai mẹ phải lập giấy bán nhà vì nợ 30.000 đồng không có tiền trả. Như vậy là có căn cứ xác định tiền nhà đã trả đủ và giá nhà là 30.000 đồng.

3

í

PHẦN THỨ BA

VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ

  1. THÔNG Tư SỐ 81/TANDTC NGÀY 24/7/1981 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HƯỚNG DẪN GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ

I – NGUYÊN TẮC CHUNG

Thừa kế là sự chuyển dịch di sản của người đã chết cho người còn sống. Việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế cần theo những nguyên tắc chung sau đây:

  1. “Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân” đoạn 2 Điều 27 Hiến pháp năm 1980. Công dân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi chết (thừa kế theo di chúc) nếu không có di chúc thì thừa kế theo luật.
  2. Phụ nữ và nam giới bình đẳng về quyền lập di chúc, về quyền được thừa kế di sản và về phần di sản được hưởng.
  3. Tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có di sản, đồng thời bảo hộ thích đáng quyền lợi của một số người thừa kế theo luật (người thừa kế bắt buộc).
  4. Việc thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là căn cứ để xác định khối di sản thừa kế và những người được thừa kế. Người thừa kế phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế (trừ trường hợp thừa kế thế vị).
  5. Người thừa kế có quyền nhận hoặc không nhận thừa kế. Người nhận thừa kế được hưởng các tài sản và các quyền về tài sản của người chết để lại, đồng thời phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ về tài sản mà người chết để lại, trong phạm vi giá trị tài sản đã nhận được.

Di sản không có người thừa kế hoặc tùy có người thừa kế nhưng họ không nhận, thì thuộc về Nhà nước.

  1. Khi giải quyết việc thừa kế cần kiên trì hòa giải nhằm góp phần củng cố và phát triển tình đoàn kết, thương yêu trong nội bộ gia đình, bảo đảm sản xuất và công tác.

– I – DI SẢN THỪA KẾ

Di sản thừa kế bao gồm:

– Các tài sản thuộc quyền sở hữu của người để thừa kế và thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt và những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ.

– Các quyền về tài sản mà người để thừa kế được hưởng theo quan hệ hợp đồng hoặc do được bồi thường thiệt hại.

– Các nghĩa vụ về tài sản của người để thừa kế phát sinh do quan hệ hợp đồng, do việc gây thiệt hại hoặc do quyết định của cơ quan có thẩm quyền (ví dụ: Một món nợ, một khoản bồi thường thiệt hại v.v…).

Đối với những quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân người chết (tức là không thể di chuyển cho người khác được), thì không phải là di sản thừa kế của người đó. Ví dụ: Các quyền được hưởng trợ cấp thương tật, tiền tuất, trợ cấp vì túng thiếu sau khi ly hôn… chỉ có thể được thực hiện khi người được hưởng quyền còn sống. Nghĩa vụ trợ cấp cho vợ vì túng thiếu sau khi ly hôn chỉ phải thực hiện khi người có nghĩa vụ còn sống. Vì vậy, các người thừa kế không được hưởng loại quyền tài sản gắn liền với thân nhân người chết, và cũng không phải thực hiện loại nghĩa vụ tài sản đó.

Sau đây là một số loại tài sản cụ thể cần chú ý trong khi xét xử thừa kế:

  1. Đất đai

Theo Điều 19 và Điều 20 của Hiến pháp mới, đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

Đất đai (kể cả đất canh tác, đất ở, đất hương hỏa…) không thuộc quyền sở hữu riêng của công dân, nên không thể là di sản thừa kế.

Nếu người đang sử dụng đất chết thì việc điều chỉnh quyền sử dụng phần diện tích đó sẽ do pháp luật về đất đai quy định. Cây cói và hoa mấu thuộc quyền sở hữu của người đã chết, vẫn thuộc di sản thừa kế.

  1. Nhà thờ họ

– Nhà thờ có từ lâu đời hoặc nhà thờ do các thành viên trong họ đóng góp công sức và tiền của xây dựng nên là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của những người trong họ, nên không thể trở thành di sản của người trường họ (hoặc của bất cứ cá nhân nào). Nếu có tranh chấp thì giải quyết theo nguyện vọng chung của các thành viên trong họ.

– Nhà thờ do người trường họ bỏ tiền riêng xây dựng rồi cho họ mượn làm nơi thờ cúng hoặc nhà của người trường họ được dành ra một phần diện tích để làm nơi thờ cúng vẫn thuộc quyền sở hữu của người trường họ. Nếu người trường họ chết thì nhà này là di sản thừa kế.

  1. Tư liệu sản xuất và nhà thuộc diện cải tạo

Những tư liệu sản xuất, phương tiện kinh doanh, phương tiện vận chuyển của người tư sản cải tạo đã đưa vào công tư hợp danh, hoặc nhà cửa của người tư sản nhà cửa đã chuyển cho Nhà nước quản lý, đều thuộc sở hữu Nhà nước.

Riêng phần diện tích nhà ở mà trong khi cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã cho lại chủ nhà để ở thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người chủ nhà. Nếu chủ nhà chết, thì phần diện tích đó vẫn thuộc về di sản thừa kế.

Tiền tỷ lệ phần trăm của tiền cho thuê nhà mà người tư sản nhà cửa được hưởng (theo Thông tư số 12-NV ngày 22-4-1964 của Bộ Nội vụ và Thông tư số 31-BXD ngày 15-10-1977 của Bộ Xây dựng) hoặc tiền lãi cố định hàng năm, tính theo tỷ lệ phần trăm của vốn mà người tư sản công thương nghiệp được hưởng (theo Quyết định số 71-CP ngày 13-4-1972 của Hội đồng Chính phủ) là để tạo điều kiện cho người

tư sản lao động cải tạo dần, tiến tới sống bằng sức lao động của bản thân họ. Nếu họ chết, tiền đó không thuộc vẽ di sản thừa kế.

  1. Tư liệu sản xuất của xã viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp hoặc thủ công nghiệp

Những tư liệu sản xuất đã công hữu hóa và thuộc quyền sở hữu tập thể của hợp tác xã. Những tư liệu sản xuất chưa được công hữu hóa thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người chủ cũ. Nếu người đó chết các tư liệu sản xuất này vẫn thuộc di sản thừa kế, nhưng khi chia thừa kế cần giải quyết hợp lý, hợp tình, để vẫn đảm bảo quyền lợi của các người thừa kế, mà không làm ảnh hưởng đáng kể đến việc sản xuất của hợp tác xã.

  1. Đồ dùng mượn của cơ quan

Những đồ dùng sinh hoạt (như giường, tủ, bàn ghế) mà cán bộ, công nhân viên chức mượn theo tiêu chuẩn và khi về hưu đã được cấp hẳn (theo Quyết định số 296-CP ngày 20-11-1978 của Hội đồng Chính phủ), thì kể từ ngày được cấp hẳn, các tài sản này thuộc quyền sở hữu của người được cấp. Khi người được cấp chết, tài sản đã thuộc về di sản thừa kế.

Những thứ được mượn nhưng không được cấp thì phải trả lại cho cơ quan, xí nghiệp.

  1. Vàng, bạc, bạch kim và kim cương

Nhà nước công nhận quyền sở hữu chính đáng của người dân về vàng, bạc, bạch kim, kim cương không kể số lượng nhiều hay ít, đâ chế biến hay chưa chế biến thành đồ trang sức, mỹ nghệ.

Để bảo hộ quyền sở hữu chính đáng đó, Nhà nước quy định người có vàng bạc, bạch kim, kim cương phải kê khai đề Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu (theo Quyết định số 39-CP ngày 9-2-1979 của Hội đồng Chính phủ). Những thứ đã được kê khai và có giấy chứng nhận hợp lệ thì khi sở hữu chủ chết, được để làm di sản thừa kế như

các tài sản hợp pháp khác. Những thứ không được kê khai và không có giấy chứng nhận hợp lệ thì Tòa án cần trao đổi với Ngân hàng về chủ trương giải quyết. Tuy nhiên, nếu số lượng ít (vàng từ 37,5 g, bạch kim 37,5 g, bạc 375 g, kim cương 0,600 g trở xuống) thì Tòa án cứ chia và báo cho người được chia đến Ngân hàng kê khai.

  1. Tiền tuất, bằng khen, huân chương

– Tiền tuất là tiền cấp cho các thân nhân của người chết, nên tiền tuất không thuộc về di sản của người chết.

– Bằng khen, huân chương, huy chương… không phải là tài sản, mà là thứ có giá trị về mặt tinh thần đối với cả gia đình của người đã có công. Người nào giữ là giữ chung cho cả gia đình. Nếu trong gia đình không thỏa thuận được, thì ủy ban nhân dân giải quyết.

II – THỪA KẾ THEO LUẬT

Thừa kế theo luật là việc di chuyển di sản thừa kế theo những quy định của pháp luật.

Thừa kế theo luật được thực hiện trong các trường hợp: Người để lại thừa kế không định đoạt di sản của mình bằng di chúc hoặc có làm di chúc nhưng toàn bộ hoặc một phần của di chúc không có giá trị pháp luật; hoặc chỉ định đoạt bằng di chúc một phần di sản; hoặc người thừa kế được chỉ định trong di chúc chết trước người lập di chúc hay từ chối không nhận di chúc. Toàn bộ di sản không có di chúc hoặc phần di sản nằm ngoài di chúc hợp pháp sẽ được chuyển cho các người thừa kế theo quy định của pháp luật.

A – Diện và hàng thừa kế

Cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo luật là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Diện những người thừa kế theo luật gồm những người thân gần gũi của những người chết theo ba quan hệ này. Cụ thể: diện thừa kế theo luật gồm: Vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ hoặc

bố nuôi, mẹ nuôi; ông nội, bà nội và ông ngoại, bà ngoại; anh, chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; anh, chị, em nuôi.

Nhưng không phải tất cả những người ở trong diện thừa kế đều được thừa kế cùng một lúc. Những người thân gần gũi nhất với người chết được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất. Những người thân gần gũi tiếp theo được xếp vào hàng thừa kế thứ hai. Những người ở hàng thừa kế thứ nhất được chia trước và thừa kế toàn bộ di sản, nêu ở hàng thứ nhất không có ai hoặc tuy có nhưng họ đều không nhận, thì mới đến những người thừa kế ở hàng thứ hai. Các người thừa kế trong cùng một hàng, được hưởng một suất ngang nhau.

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi.

Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh, chị, em nuôi.

  1. Ở hàng thừa kế thứ nhất

– Quan hệ vợ chồng, cho đến khi mở thừa kế, phải là quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc là quan hệ hôn nhân thực tế, được Tòa án thừa nhận.

Trường hợp một bên xin ly hôn hoặc cả hai bên xin thuận tình ly hôn, Tòa án đã xử cho ly hôn, trong thời gian bản án chưa có hiệu lực pháp luật, nêu một bên chết, bên còn sống vẫn có quyền thừa kế của bên kia, vì về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng vẫn còn.

Ở miền Nam, đối với những trường hợp vợ chồng đã ly thân trước ngày giải phóng thì về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng vẫn còn, cho nên họ vẫn được thừa kế lẫn nhau. Nhưng nếu sau khi ly thân, mỗi bên đã kết hôn với người khác (hoặc một bên đã kết hôn với người khác mà bên kia không khiếu nại gì) thì thực chất quan hệ vợ chồng không còn nữa, nên họ không được thừa kế của nhau.

– Con đẻ gồm có con chung và con riêng, kể cả người con được thụ thai khi người bố còn sống và sinh ra sau khi người bố chết không quá 300 ngày. Con riêng gồm con trong giá thú và con ngoài giá thú (nếu có).

– Con nuôi được thừa kế phải là con nuôi hợp pháp, tức là việc nuôi con nuôi phải được ủy ban nhân dân cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch (Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình). Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp nhằn dân chưa hiểu pháp luật cho nên chưa xin chính quyền công nhận và đăng ký vào sổ hộ tịch việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, nếu việc nhận con nuôi là ngay thẳng, cha mẹ đẻ của đứa trẻ hoàn toàn tự nguyện, việc nuôi dưỡng đứa trẻ được bảo đảm, thì coi là con nuôi thực tế. Con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau. Con nuôi (hợp pháp hay thực tế) không được thừa kế theo luật đối với di sản của bố mẹ đẻ và anh, chị, em ruột.

– Người được nhận làm người thừa tự thì coi như con nuôi của người lập tự và được thừa kế di sản của người đó.

– Con riêng của vợ hay chồng người chết không được thừa kế di sản của người chết, vì không có quan hệ huyết thống đối với người đẻ. Nhưng nếu có đầy đủ bằng chứng để xác định rằng người con riêng đã được bố dượng hoặc mẹ ghẻ thương yêu, nuôi nấng, chăm sóc như con đẻ, thì người con riêng đó được coi như con chung, nên được thừa kế.

Người con nào (kể cả con nuôi) chết trước người để thừa kế, thì các con của người đó (tức là các cháu của người để thừa kế) sẽ hưởng phần thừa kế của bố hoặc mẹ mình (thừa kế thế vị).

Những người có thể thừa kế lẫn nhau (như vợ và chồng, cha và con…) nếu chết trong cùng một thời điểm, hoặc trong trường hợp không thể xác định được ai chết trước, thì không ai được thừa kế của ai. Di sản của người nào sẽ chia cho những người thừa kế của người đó.

– Người con dâu không được thừa kế di sản của bố, mẹ chồng. Nếu người con dâu có đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển khói

tài sản của nhà chóng, thì họ có quyền được trích chia một phần tài sản tương xứng với công sức đã đóng góp, với danh nghĩa là người có quyền lợi chung.

Người con rể nếu ở với gia đình nhà vợ, cũng được giải quyết tương tự như người con dâu đối với gia đình nhà chồng.

Các con, cháu sống chung trong gia đình, người nào có đóng góp đáng kể trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, khi bố mẹ hoặc ông bà chết và cần chia di sản, đểu được trích chia một phần tài sản tương xứng với công sức đã đóng góp.

Số tài sản được trích chia cho các thành viên trong gia đình với tư cách là người có quyền lợi chung, là nằm ngoài khối di sản của người chết. Do đó, đối với những người vừa được trích chia tài sản với tư cách là người có quyền lợi chung, vừa được chia thừa kế, thì không được trừ số tài sản mà họ được trích chia vào kỷ phần di sản mà họ được chia thừa kế.

  1. ở hàng thừa kế thứ nhất

Ồng nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; anh, chị, em ruột; anh, chị, em cùng mẹ khác cha, cùng cha khác mẹ của người để lại thừa kế có quan hệ huyết thống gần gũi với người để thừa kế cho nên thuộc hàng thừa kế thứ hai.

Con nuôi được coi như con đẻ, nên anh, chị, em nuôi cũng được xếp cùng hàng với anh, chị, em ruột và có quyền thừa kế như anh, chị, em ruột.

  1. Người sống nương nhờ

Người mất sức lao động, sống nương nhờ vào người có di sản (bằng trợ cấp thường xuyên hoặc nuôi dưỡng ở trong nhà), không được thừa kế di sản người đó. Nhưng để tránh gây ra những khó khăn đột xuất trong đời sống của người sống nương nhờ, cần trích một phần ở khối di sản để giúp đỡ họ. Khoản giúp đỡ này nhiều hay ít tùy thuộc

vào thời gian người đó đã được giúp đỡ dài hay ngắn, mức độ nhiều hay ít và tùy theo tình hình khối di sản để lại. Nếu trước khi chết một thời gian, người để lại di sản đã thôi không giúp đỡ nữa, người sống nương nhờ đã có sự giúp đỡ khác bảo đảm đời sống, thì không cần thiết phải trích di sản để giúp đỡ người đó nữa.

Nếu có người thừa kế tự nguyện cho người đang sống nương nhờ được nương nhờ vào mình, thì kỷ phần của người thừa kế này cẩn được tăng thêm một cách thỏa đáng.

  1. Người không được thừa kế

Người đã giết người để thừa kế hoặc đã đối xử quá tàn tệ với người đó thì không được thừa kế di sản của người đó.

Người đã giết người thừa kế cùng hàng với mình để chiếm đoạt toàn bộ di sản hoặc nhằm làm tăng kỷ phần cho bản thân thì không được thừa kế di sản của cả hai người ấy (người để thừa kế và người bị giết).

B – Phân chia di sản thừa kế

Trước hết cắn cố gắng hòa giải để các đương sự tự thỏa thuận với nhau một cách hợp lý, hợp tình, trên tinh thần đoàn kết, nhường nhịn và tương trợ lẫn nhau. Khi xét thấy không còn khả năng hòa giải thành, Tòa án mới đưa vụ án ra xét xử.

Trong việc phân chia di sản, trước tiên cần xác định chính xác phạm vi khối di sản của người chết để lại, tức là cần kiểm kê và trị giá các loại tài sản hiện có, thanh toán khối tài sản chung giữa người chết với người khác như: giữa người chết với vợ hoặc chồng của người đó, giữa người chết với những người đã có đóng góp công sức đáng kể vào khối tài sản chung hoặc với những người đồng sở hữu khác (theo thời giá lúc xử sơ thẩm).

Sau khi đã xác định chính xác khối di sản (gồm các tài sản, các quyển và nghĩa vụ về tài sản) mà người chết để lại, cần thanh toán các khoản nghĩa vụ của người chết theo thứ tự ưu tiên sau đây:

– Tiến cấp dưỡng;

– Tiên bói thường tổn hại về sức khỏe, tính mạng của công dân;

– Tiến cóng lao động;

– Các món nợ của Nhà nước;

– Các món nợ khác.

Tiếp đó, trích ra một phần để giúp đỡ người sống nương nhờ.

Sau khi thanh toán xong các quan hệ về mặt dân luật, phần di sản còn lại sẽ được chia cho những người thừa kế. Người chưa thành niên, người mất sức lao động, người đang gặp khó khăn về đời sống, người có công nuôi dưỡng, chăm sóc người để lại di sản và người có công giữ gìn di sản của người đã chết, cần được chiếu cố.

Khi chia di sản, phải căn cứ vào tính chất và công dụng của từng loại tài sản và nhu cầu thực tế khác nhau về sản xuất, công tác và sinh hoạt của mỗi người thừa kế mà phân chia cho họ được những loại tài sản thích hợp, nhằm vừa phát huy được giá trị sử dụng của từng loại tài sản, vừa tạo cho mỗi người thừa kế có thêm thuận lợi trong sản xuất, công tác và sinh hoạt.

Đối với những tài sản không thể phân chia được hoặc nếu phân chia, sẽ mất công dụng tốt nhất của nó, thì không nên phân chia nhỏ. Nêu giữa người được chia loại tài sản này với người được chia loại tài sản khác có sự chênh lệch về giá trị, thì người được chia loại tài sản có giá trị lớn hơn phải bù chênh lệch.

Những tài sản mà bố mẹ khi còn sống đã cho các con (khi lấy chồng, lấy vợ, ra ở riêng…) thì không tính vào di sản. Nhưng khi chia cần chú ý đến số tài sản mà người đó đã được bố mẹ cho nhiều hay ít và hoàn cảnh của người đó trong mối tương quan chung, để có sự điều chỉnh cho hợp lý, hợp tình, tránh tình trạng có người con đã được bố mẹ cho nhiều nay vẫn được chia một suất bằng suất của người chưa được bố mẹ cho gì và nay đang gặp khó khăn.

Trường hợp sau khi cha mẹ chết, có người con muốn xin chia di sản để ra ở riêng, thì trích cho họ một số tài sản, phù hợp với công sức đóng góp của họ vào khối tài sản chung và một phần di sản bằng một suất thừa kế của họ. Số tài sản còn lại, những người còn sóng chung trong gia đình vẫn dùng chung, hưởng chung.

Phán di sản chia cho người chưa thành niên sẽ giao cho người giám hộ quản lý. Phần di sản chia cho người thừa kế vắng mặt, thì tùy trường hợp mà giao cho người thân thích gần gũi nhất của họ hoặc giao cho cơ quan có trách nhiệm quản lý tài sản vắng chủ quản lý.

IV – THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Thừa kế theo di chúc là việc di chuyển di sản thừa kế của một người đã chết cho các người khác theo sự định đoạt của người đó khi còn sóng.

A – Hình thức của di chúc

Di chúc có thể là chúc thư viết hoặc di chúc miệng.

Di chúc viết phải do người có năng lực hành vi dân sự tự nguyện lập ra, được chính quyền địa phương xác nhận. Trong trường hợp đặc biệt, di chúc có thể do cơ quan, đơn vị nơi đương sự làm việc xác nhận. Nếu người có tài sản đang đi trên phương tiện giao thông hay đang ở trong một cơ sở chữa bệnh mà gặp tình huống phải cấp bách lập di chúc thì sự chứng nhận của người phụ trách của phương tiện giao thông hay cơ sở chữa bệnh cũng được coi là hợp lệ.

Nếu di chúc không có sự chứng nhận hợp lệ, nhưng có người làm chứng bảo đảm, hoặc xác định được di chúc đó đúng là do người có di sản tự nguyện lập ra (như đúng là chữ viết và chữ ký của người có di sản, thời gian và địa điểm ghi trong di chúc cũng phù hợp…) thì cũng có giá trị.

Nếu là di chúc miệng thì phải có người làm chứng bảo đảm.

Người lập di chúc, khi còn sống có quyền thay đổi việc định đoạt

tài sản của mình, tức là có quyền bổ sung, sửa đổi hoặc hủy bỏ di chúc. Cho nên một người chết có thể để lại nhiều bản di chúc. Trong trường hợp này, nếu các bản di chúc có nội dung khác nhau, thì di chúc lập sau cùng có giá trị thi hành. Nếu di chúc lập sau bổ sung hay cụ thể hóa nội dung của di chúc lập trước thì cả hai đều có giá trị.

Di chúc của người không có năng lực hành vi dân sự hoặc di chúc làm ra vì bị đe dọa, áp buộc hoặc di chúc miệng không có người làm chứng, đều không có giá trị.

Trường hợp khó xác định di chúc nào có giá trị thi hành, thì căn đi sâu điều tra để xác định ý chí cuối cùng của người lập di chúc, không kể là di chúc được lập dưới hình thức nào.

B – Quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc

Thông qua di chúc, người có tài sản có quyền để lại tài sản của mình cho bất cứ ai. Người thừa kế được chỉ định trong di chúc có thể là công dần, Nhà nước hay một tổ chức xã hội. Nếu là công dân thì người đó có thể ở trong diện thừa kế theo luật, mà cũng có thể không ở trong diện đó.

Tuy nhiên, nội dung của di chúc phải phù hợp với chính sách và pháp luật. Nêu toàn bộ nội dung của di chúc đều trái với chính sách và pháp luật, thì di chúc không có giá trị. Nếu chỉ có một số điểm không đúng pháp luật, thì chỉ riêng những điểm đó không có giá trị, những điểm khác phù hợp với pháp luật vẫn được thi hành.

Người lập di chúc phải dành lại một phần tài sản cho những người thừa kế bắt buộc (nếu có). Những người thừa kế bắt buộc gồm: Vợ góa hoặc chồng góa, con chưa thành niên hoặc tuy đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, bố mẹ già yếu và túng thiếu.

Phần di sản phải dành lại cho mỗi người thừa kế bắt buộc, ít nhất là 2/3 suất của thừa kế theo luật. Nếu di chúc truất quyền thừa kế của người thừa kế bắt buộc hoặc phần dành lại cho mỗi người thừa kế bắt buộc ít hơn 2/3 suất thì phải trích chia cho đủ 2/3.

Sau khi đã trích chia cho những người thừa kế bắt buộc, Tòa án vẫn chiếu theo di chúc để phân chia số di sản còn lại cho những người được chỉ định trong di chúc, theo tỷ lệ phân quyền của họ.

Di chúc do hai vợ chồng cùng làm để định đoạt tài sản chung, nếu một người chết trước, thì chỉ riêng phần di sản của người đó được thi hành theo di chúc. Người còn sống có quyền giữ nguyên, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc đối với phần tài sản của mình.

Trường hợp người chóng (hoặc người vợ) do không hiểu pháp luật hoặc còn bị ảnh hưởng của phong tục, tập quán cũ, đã định đoạt cả khối tài sản chung của vợ chóng, thì phần tài sản của vợ (chồng) của người chết được tách ra giao cho người đó. Phần còn lại là di sản của người chết sẽ giao cho người được chỉ định trong di chúc./.

  1. PHÁP LỆNH THỪA KẾ NĂM 1990[4]

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHƯNG

Điều 1. Quyên thừa kế của công dân

Công dân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 2. Quyền bình đẳng về thừa kế của công dân

Công dân không phân biệt nam, nữ đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật, quyền hưởng di sản.

Điều 3. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế

  1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết hoặc được Tòa án xác định là đã chết.
  2. Địa điểm mở thừa kế là nơi thường trú cuối cùng của người để lại di sản. Nếu không xác định được nơi thường trú cuối cùng của người để lại di sản, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có tòa n bộ hoặc phần lớn di sản.

Điều 4. Di sản

  1. Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do người chết đề lại.

Tài sản gồm có tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp.

  1. Trong trường hợp vợ hoặc chồng chết thì một nửa tài sản chung của vợ chóng thuộc về di sản của người chết.

Điều 5. Người thừa kế

  1. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, Nhà nước, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế.

Người thừa kế theo di chúc là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Người sinh ra sau khi người lập di chúc chết, nhưng đã thành thai trước khi người lập di chúc chết cũng là người thừa kế di chúc.

Người thừa kế là cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế phải là cơ quan, tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

  1. Người thừa kế theo pháp luật phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Con của người để lại di sản sinh ra sau khi người để lại di sản chết cũng là người thừa kế theo pháp luật của người chết.

Điều 6. Việc thừa kế của những người được coi là chết trong cùng một thời điểm

Trong trường hợp những người có quyền thừa kế tài sản của nhau đều chết mà không xác định được người nào chết trước, thì họ không được thừa kế tài sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng.

Điều 7. Những người thừa kế không có quyền hưởng di sản

  1. Những người thừa kế sau đây không có quyền hưởng di sản:
  2. a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản;
  3. b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
  4. c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng;
  5. d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép người có tài sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người có tài sản.
  6. Những người nói tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người có tài sản thể hiện ý chí vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

Điều 8. Nghĩa vụ về tài sản của người thừa kế

Người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.

Điều 9. Di sản thuộc về Nhà nước

Trong trường hợp không có người thừa kế hoặc những người thừa kế đều không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản, thì di sản thuộc về Nhà nước.

Chương II

THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Điều 10. Quyền lập di chúc

Công dân có quyền lập di chúc để chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một hoặc nhiều người trong hoặc ngoài các hàng thừa kế theo pháp luật, cũng như cho Nhà nước, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế.

Điều 11. Quyền của người lập di chúc

  1. Khi lập di chúc người có tài sản có quyền:
  2. a) Chỉ định người thừa kế;
  3. b) Phân định tài sản cho người thừa kế;
  4. c) Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
  5. d) Truất quyền hưởng di sản của một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lý do.
  6. Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung di chúc đã lập, thay thế di chúc đã lập bằng di chúc khác, hủy bỏ di chúc.

Điều 12. Di chúc hợp pháp

  1. Di chúc hợp pháp là di chúc do người từ đủ mười tám tuổi trở lên tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.

Di chúc cũng được coi là hợp pháp nếu do người từ đủ mười sáu tuổi trở lên nhưng chưa đủ mười tám tuổi tự nguyện lập trong khi minh mẫn, được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.

  1. Di chúc do công dân Việt Nam lập ở nước ngoài theo pháp luật của nước ngoài, nếu có nội dung không trái với pháp luật của Việt Nam, cũng được coi là di chúc hợp pháp.

Điều 13. Nội dung bản di chúc

  1. Trong bản di chúc phải ghi rõ: Ngày, tháng, năm lập di chúc; họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc; họ, tên người được hưởng di sản; tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; tài sản, quyền về tài sản để lại cho người, cơ quan tổ chức được hưởng; nơi có tài sản đó. Nếu người lập di chúc giao nghĩa vụ cho người thừa kế thì phải nêu rõ là giao cho ai, nghĩa vụ gì.
  2. Trong bản di chúc phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Điều 14. Di chúc viết được cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân chứng thực

  1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc.
  2. Người lập di chúc có thể tự viết hoặc nhờ người khác viết bản d chúc, những người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ trước mặt người

có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

  1. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc bản di chúc được, không ký hoặc điểm chỉ được, thì phải nhờ người chứng kiến. Người chứng kiến đọc bản di chúc cho người lập di chúc nghe và ký vào bản di chúc trước mặt người có trách nhiệm chứng thực của cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
  2. Người có trách nhiệm của cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân chứng thực vào bản di chúc trước mặt người lập di chúc, người chứng kiến.

Điều 15. Di chúc viết được cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực

Công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có thể yêu cầu cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực di chúc theo thủ tục như quy định tại Điều 14 của Pháp lệnh này.

Điều 16. Di chúc viết có giá trị như di chúc được chứng thực

Các di chúc sau đây cũng có giá trị như di chúc được chứng thực:

  1. Di chúc của quân nhân có xác nhận của thủ trưởng đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc cấp tương đương trở lên trong trường hợp quân nhân không thể yêu cầu cơ quan công chứng, ủy ban nhân dân chứng thực;
  2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó;
  3. Di chúc của người đang điều trị tại cơ sở chữa bệnh, cơ sở điều dưỡng có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó;
  4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó;
  5. Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang cải tạo ở trại cải tạo có xác nhận của người phụ trách cơ sở giam giữ, cải tạo đó.

Điều 17. Di chúc viết không có chứng thực, xác nhận

Di chúc viết không có chứng thực, xác nhận như quy định tại các điều 14, 15, 16 của Pháp lệnh này chỉ được coi là di chúc hợp pháp nếu đúng là do người để lại di sản tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.

Điều 18: Di chúc miệng

  1. Trong trường hợp tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng mà không thể lập di chúc viết được thì có thể lập di chúc miệng.
  2. Di chúc miệng cũng là di chúc hợp pháp nếu đúng là do người để lại di sản tự nguyện lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định của pháp luật.
  3. Sau ba tháng kề từ ngày lập di chúc miệng, nếu người lập di chúc còn sống và minh mẫn, thì coi như di chúc miệng đó bị hủy bỏ.

Điều 19. Người không được chứng thực, xác nhận di chúc, chứng kiến việc chứng thực di chúc

  1. Người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc của người nào thì không được chứng thực hoặc xác nhận di chúc của người đó.
  2. Người dưới mười sáu tuổi, người không minh mẫn không được làm người chứng kiến việc chứng thực di chúc.

Điều 20. Những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Trong trường hợp không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, thì những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng ít nhất là hai phần ba suất đó, trừ trường hợp họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh này:

  1. a) Cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên không đủ khả năng lao động và túng thiếu;
  2. b) Con chưa thành niên.

Điều 21. Di sản dùng vào việc thờ cúng

Nếu người lập di chúc có để di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó được coi như di sản chưa chia. Khi việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc thì những người thừa kế của người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng có quyền hưởng di sản đó. Nếu những người thừa kế đó đều đã chết, thì di sản thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này.

Điều 22. Sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc

  1. Trong trường hợp người lập di chúc sửa đổi di chúc thì phần của di chúc không bị sửa đổi vẫn hợp pháp.
  2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và điều bổ sung di chúc đều hợp pháp.
  3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc thì coi như không có di chúc trước.

Điều 23. Hiệu lực của di chúc

  1. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.

Trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung, mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc có liên quan đến tài sản của người chết trước có hiệu lực.

  1. Di chúc không có hiệu lực, nếu người thừa kế theo di chúc chết trước người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không còn tổn tại vào thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, thì chỉ phần của di chúc có liên quan đến người chết trước, liên quan đến cơ quan, tổ chức không còn tồn tại đó không có hiệu lực.
  2. Di chúc không có hiệu lực nếu tài sản, quyền về tài sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. Nếu tài sản, quyền 202

về tài sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần của di chúc về phần còn lại đó vẫn có hiệu lực.

  1. Nếu di chúc có phần không hợp pháp thì chỉ phần đó không có hiệu lực.

Chương III THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Điều 24. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

  1. Người thừa kế theo pháp luật được hưởng di sản trong những trường hợp sau đây:
  2. a) Không có di chúc;
  3. b) Di chúc không hợp pháp;
  4. c) Người thừa kế theo di chúc chết trước người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
  5. d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc đều không có quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản.
  6. Các phần di sản sau đây cũng do người thừa kế theo pháp luật hưởng:
  7. a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
  8. b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực;
  9. c) Phần di sản có liên quan đến người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản hoặc chết trước người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Điều 25: Những người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật gồm có: .
  2. a) Hàng thứ nhất: vợ, chóng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
  3. b) Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết.
  4. c) Hàng thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
  5. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang nhau.
  6. Trong trường hợp không có người thừa kế hàng thứ nhất hoặc những người thừa kế hàng thứ nhất đều không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản, thì những người thừa kế hàng thứ hai được hưởng di sản.
  7. Trong trường hợp không có người thừa kế hàng thứ nhất và hàng thứ hai hoặc những người thừa kế thuộc cả hai hàng này đểu không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản, khước từ quyền hưởng di sản, thì những người thừa kế hàng thứ ba hưởng di sản.

Điều 26. Thừa kế thế vị

Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nêu còn sống; nêu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắc được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

Điều 27. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi với cha nuôi, mẹ nuôi và gia đình cha, mẹ đẻ

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này.

Điều 28. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha kế, mẹ kế

Con riêng và cha kế, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng

nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau; ngoài ra họ vẫn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này.

Điều 29. Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác

  1. Trong trường hợp vợ, chóng đã chia tài sản chung theo Điều 18 của Luật Hôn nhân và gia đình mà sau đó một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế tài sản của người đã chết.
  2. Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế tài sản của người đã chết.
  3. Vợ góa hoặc chồng góa của người đã chết dù kết hôn với người khác cũng vẫn được thừa kế tài sản của người đã chết.
  • Chương IV

QUYỂN LỢI, NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI THỪA KẾ

Điều 30. Sự phát sinh quyền lợi, nghĩa vụ của người thừa kế

Từ thời điểm mở thừa kế, di sản thuộc quyền sở hữu của người thừa kế và từ đó họ có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại.

Điều 31. Khước từ quyền hưởng di sản

  1. Người thừa kế có thể khước từ quyền hưởng di sản, trừ trường hợp việc khước từ đó nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của bản thân về tài sản. Người thừa kế có thể nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế khác.
  2. Thời hạn khước từ quyền hưởng di sản là sáu tháng, kể từ ngày người thừa kế biết thời điểm mở thừa kế.
  3. Người khước từ quyền hưởng di sản phải thông báo việc khước từ cho người thừa kế khác, ủy ban nhân dân hoặc cơ quan công chứng nơi mở thừa kế.

Điều 32. Việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại

  1. Nếu di sản chưa được chia thì người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản.
  2. Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần di sản mà mình đã nhận.
  3. Nếu Nhà nước, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế hưởng di sản theo di chúc, thì cũng thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Chương V

BẢO QUẢN, THANH TOÁN, PHÂN CHIA DI SẢN

Điều 33. Bảo quản di sản

  1. Việc giao di sản chưa chia cho ai bảo quản do những người thừa kế quyết định.
  2. Người bảo quản di sản chưa chia không được bán, cho, đổi, cầm cố, thế chấp di sản đó, trừ trường hợp được sự thỏa thuận của những người thừa kế.
  3. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế hoặc di sản là tài sản vắng chủ, thì di sản do Nhà nước quản lý.

Điều 34. Thanh toán các khoản chi từ di sản trước khi chia di sản

Trước khi chia di sản, nếu có các khoản chi phí, cấp dưỡng, trợ cấp, nợ hoặc các khoản khác phải thanh toán từ di sản, thì thanh toán theo thứ tự sau đây:

  1. Chi phí về mai táng cho người đã chết;
  2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
  3. Tiên trợ cấp cho người sống nương nhờ;
  4. Tiền công lao động;
  5. Tiền bồi thường thiệt hại;
  6. Tiền thuế;
  7. Tiền phạt;
  8. Các món nợ khác của Nhà nước;
  9. Các món nợ khác của công dân, pháp nhân;
  10. Chi phí cho việc bảo quản di sản, các chi phí khác.

Điều 35. Phân chia di sản

  1. Trong trường hợp những người thừa kế theo pháp luật không thỏa thuận được với nhau về phân chia di sản thì những người thừa kế cùng hàng được chia phần di sản ngang nhau.

Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra, thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra thì được hưởng, nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.

  1. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật. Trong trường hợp không thể chia đều hiện vật thì người nhận hiện vật có giá trị cao phải thanh toán tiền chênh lệch cho người nhận hiện vật có giá trị thấp.
  2. Di sản là hiện vật mà không có người thừa kế nào nhận thì được bán để chia tiền.
  3. Trong trường hợp người lập di chúc không phân định tài sản cho những người thừa kế, thi việc phân chia di sản được thực hiện theo quy định tại các khoản 1,2,3 Điều này.

Điều 36. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

  1. Trong thời hạn mười năm, kề từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
  2. Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cậu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
  3. Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được quyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.
  4. Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.

Chương VI

ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG

Điều 37. Quyền thừa kế của người nước ngoài

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền thừa kế của người nước ngoài đối với tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam theo quy chế về người nước ngoài tại Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận.

Điều 38. Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.

  1. NGHỊ QUYẾT SỐ 02/HĐTP NGÀY 19/10/1990 CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT số QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỪA KẾ

Pháp lệnh Thừa kế được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 30-8-1990. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án nhân dân các cấp áp dụng một số quy định của Pháp lệnh này như sau:

  1. Vê di sản

Điều 4 của Pháp lệnh quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác, quyền về tài sản do người chết để lại.

Tài sản gồm có tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp khác”.

Khi xác định di sản, cần chú ý là:

  1. a) Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương đổi mới về kinh tế, do đó, phạm vi những tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân đã được mở rộng hơn trước. Vì vậy di sản không chỉ là những đồ dùng hàng ngày, nhà ở, tư liệu sinh hoạt khác; của cải để dành; những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ… như trước đây, mà còn bao gồm cả những máy móc, nhà xưởng, kho tàng, nguyên vật liệu…; vốn bằng tiền, vàng, ngoại tệ, với số lượng không hạn chế; cổ phiếu V. V… Do đó, tất cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu của một người sẽ trở thành di sản khi người đó chết.

Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất được giao không phải là quyền sở hữu về tài sản của công dân nên không

thể trở thành di sản khi công dân chết. Các tranh chấp về di sản có liên quan đến quyền sử dụng đất được giải quyết theo quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.

  1. b) Di sản còn là những quyền về tài sản phát sinh do quan hê hợp đồng như quyền nhận tài sản mà người chết lúc còn sống đã cho vay, gửi giữ, gửi chữa, mua…; quyền nhận tiền công lao động, tiền nhuận bút, tiền bán hoặc cho sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tiền gửi tiết kiệm…; quyền của người chết được bồi thường thiệt hại về tài sản (như tiền bồi thường tư trang, hành lý của hành khách bị tai nạn giao thông; các khoản bồi thường khác của người chết khi còn sống…).
  2. c) Những quyền về tài sản gắn liền với người chết như quyền được hưởng trợ cấp thương tật, tiền tuất, tiền cấp dưỡng… thì không phải là di sản.
  3. d) Trong trường hợp người con dâu tham gia lao động chung trong gia đình bố, mẹ chổng, góp phần xây dựng, duy trì khối tài sản ờ gia đình bố, mẹ chồng, thì khi xác định di sản của bố, mẹ chổng, Tòa án phải coi khối tài sản ở gia đình bố, mẹ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung và người con dâu là một đồng sở hữu chủ. Người con dâu có quyền được hưởng phần tài sản của mình trong khối tài sản chung hiện có với danh nghĩa là một đồng sở hữu chủ chứ không phải với danh nghĩa thừa kế của bố, mẹ chồng. Người con rể trong trường hợp tương tự cũng được giải quyết như người con dâu.

Ngoài ra, trong trường hợp chồng chết trước bố, mẹ chồng mà người con dâu vẫn ở lại trong gia đình bố, mẹ chồng và có công chăm sóc, nuôi dưỡng bố, mẹ chồng, nếu người con dâu có yêu cầu, thì Tòa án trích một phần tài sản của bố, mẹ chồng để thanh toán về công sức và tài sản mà người con dâu đã dùng để chăm sóc, nuôi dưỡng bố, mẹ chồng. Người con rể trong trường hợp tương tự cũng được giải quyết như người con dâu.

  1. Về những người thừa kế không có quyền hưởng di sản
  2. a) Người thừa kế đã bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản hoặc về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng, thì dù đã được xóa án cũng không có quyền hưởng di sản của người đã chết.
  3. b) Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy định tại các điều 19, 20, 21, 23, 27 Luật Hôn nhân và gia đình (như cha mẹ và con, ông bà và cháu, anh chị em) trong khoảng thời gian 3 năm trước khi người để lại di sản chết, nếu có khả năng thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng, thì không có quyền hưởng di sản của người đó.
  4. c) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép người có tài sản trong việc lập di chúc, giả mạo (sửa đổi, bổ sung, thay thế…) di chúc, hủy (giấu, phá hủy…) di chúc với mục đích để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người có tài sản, thì không có quyền hưởng di sản của người đó.

Những người có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 7 của Pháp lệnh không có quyền hưởng di sản theo pháp luật cũng như theo di chúc đã lập trước khi có hành vi đó. Tuy nhiên, họ vẫn được hưởng di sản trong các trường hợp sau đây:

  1. d) Người đã lập di chúc thể hiện ý chí bằng văn bản hoặc bằng lời nói vẫn cho họ được hưởng di sản theo di chúc đã lập.
  2. e) Người chưa lập di chúc thể hiện ý chí vẫn cho họ hưởng di sản bằng việc lập di chúc.
  3. Về di sản dùng vào việc thờ cúng

Điều 21 của Pháp lệnh đã quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng. Nội dung của điều này được hiểu như sau: Nếu người lập di chúc

có để lại di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó coi như di sản chưa chia. Nếu thời hiệu khởi kiện về thừa kế đang còn mà việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc thì di sản dùng vào việc thờ cúng do những người thừa kế theo pháp luật được hưởng. Nếu thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã hết mà việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc, thì người nào trong số những người thừa kế theo pháp luật đang quản lý hợp pháp di sản đó được hưởng di sản đó; nếu người đang quản lý hợp pháp di sản dùng vào việc thờ cúng không phải là người thừa kế theo pháp luật, thì người thừa kế theo quy định tại Điều 25 của Pháp lệnh Thừa kế mà đang còn sống vào thời điểm xảy ra tranh chấp về di sản đó được hưởng.

  1. Về những người thừa kế theo pháp luật
  2. a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 – ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 – đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 – ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước – đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.
  3. b) Con trong giá thú hay con ngoài giá thú của một người đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người đó.

Cha, mẹ của người con trong giá thú, cha, mẹ của người con ngoài giá thú là những người thừa kế hàng thứ nhất của người con của mình.

Người vừa có con trong giá thú vừa có con ngoài giá thú là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người con của mình.

  1. c) Người vừa có con đẻ vừa có con nuôi là người thừa kế hàng thứ nhất của cả con đẻ và con nuôi của minh.
  2. d) Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là những người thừa kế

hàng thứ hai của cháu nội, cháu ngoại của mình; nhưng cháu nội, cháu ngoại không phải là người thừa kế hàng thứ hai của các ông, bà vì cha, mẹ của cháu (tức là con của ông, bà) là người thừa kế hàng thứ nhất của ông, bà, nếu cha, mẹ cháu chết trước ông, bà thì cháu là người thừa kế thế vị.

đ) Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ của người nuôi dưỡng và cũng không đương nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ của người nuôi. Do đó, con nuôi không phải là người thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ và con đẻ của người nuôi.

  1. e) Anh ruột, chị ruột, em ruột là anh, chị, em cùng mẹ hoặc cùng cha, nghĩa là một người mẹ sinh bao nhiêu người con thì bấy nhiêu người con đó đều là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào việc các con đó là cùng cha hay khác cha. Cũng tương tự như vậy, một người cha sinh ra bao nhiêu con thì bấy nhiêu người con đó đều là anh, chị, em ruột của nhau, không phụ thuộc vào việc các người con đó cùng mẹ hay khác mẹ. Con riêng của vợ và con riêng của chồng thì không phải là anh, chị, em ruột của nhau.
  2. g) Cụ nội của một người là người sinh ra ông nội hoặc bà nội của người đó. Cụ ngoại của một người là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó. Như vậy, các cục của một người gồm có cha đẻ, mẹ đẻ của ông nội, bà nội và cha đẻ, mẹ đẻ của ông ngoại, bà ngoại của người đó. Người đó là chắt của các cụ.

Các cụ là người thừa kế hàng thứ ba của chắt, nhưng chắt không phải là người thừa kế hàng thứ ba của các cụ (tương tự như ông, bà, là người thừa kế hàng thứ hai của cháu, nhưng cháu không phải là người thừa kế hàng thứ hai của ông, bà).

  1. Về thừa kế thế vị

Điều 26 quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thi cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắc được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.

Trong quy định trên có một số điểm cần chú ý như sau:

  1. a) Cháu phải sống vào thời điểm ông, bà chết mới là người thừa kế thế vị tài sản của ông, bà. Chắt phải sống vào thời điểm cụ chết mới là người thừa kế thế vị tài sản của cụ.
  2. b) Trong trường hợp con nuôi chết trước cha nuôi, mẹ nuôi, thì con của người nuôi (tức là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi) được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha, mẹ của chắt được hưởng nếu cha, mẹ của chắt còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
  3. c) Cháu sinh ra sau khi ông, bà chết nhưng đà thành thai trước khi ông, bà chết cũng là người thừa kế thế vị tài sản của ông, bà. Chắt sinh ra sau khi cụ chết, nhưng đã thành thai trước khi cụ chết cũng là người thừa kế thế vị tài sản của cụ.
  4. d) Các cháu được hưởng chung phần di sản mà đáng lẽ cha, hoặc mẹ của cháu được hưởng nêu cha, hoặc mẹ của cháu không chết trước ông, bà. Trong trường hợp các cháu đều đã chết trước ông, bà thì cháu được hưởng thừa kế thế’ vị. Các chất được hưởng chủng phần di sản mà đáng lẽ cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu cha hoặc mẹ của chắt không chết trước cụ của chắt.
  5. Về việc thừa kế tài sản của con nuôi, cha nuôi, mẹ nuôi

Điều 27 quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này”.

Quy định trên được hiểu như sau:

  1. a) Về phía gia đình cha nuôi, mẹ nuôi: con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với cha, mẹ và con đẻ của người nuôi.

Trong trường hợp người có con nuôi kết hôn với người khác thì

người con nuôi không đương nhiên trở thành con nuôi của người khác đó cho nên họ không phải là người thừa kế của nhau theo pháp luật.

  1. b) Về phía gia đình cha, mẹ đẻ: Người đã làm con nuôi của người khác vẫn có quan hệ thừa kế với cha đẻ, mẹ đẻ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 Pháp lệnh Thừa kế như người không làm con nuôi của người khác.
  2. Về quan hệ thừa kế giữa con riêng và cha kế, mẹ kế

Điều 27 quy định: “Con riêng và cha kế, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế tài sản của nhau, ngoài ra họ vẫn được thừa kế tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này”.

Trong quy định trên, có một số điểm cần chú ý như sau:

  1. a) Nói chung con riêng và cha kế, mẹ kế không được thừa kế tài sản của nhau, vì không có quan hệ huyết thống với nhau.

Tuy nhiên, nếu cha kế, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng con riêng thì cha kế, mẹ kế là người thừa kế hàng thứ nhất của con riêng, nếu con riêng chăm sóc, nuôi dưỡng cha kế, mẹ kế thì con riêng là người thừa kế hàng thứ nhất của cha kế, mẹ kế; nếu cha kế, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng con riêng và con riêng cũng chăm sóc, nuôi dưỡng cha kế, mẹ kế thì họ là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau.

  1. Về việc khước từ quyền hưởng di sản, nhường quyền hưởng di sản

Khước từ quyền hưởng di sản là việc người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật hoàn toàn từ bỏ quyền hưởng di sản. Việc người thừa kế nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế theo di chúc hoặc cho người thừa kế theo pháp luật cũng được coi là khước từ quyền hưởng di sản. Tòa án không chấp nhận việc người thừa kế khước từ quyền hưởng di sản nếu thấy việc khước từ đó nhằm trốn tránh việc

thực hiện nghĩa vụ của bản thân về trả nợ, bồi thường thiệt hại, đóng góp phí tổn nuôi con hoặc cấp dưỡng cho vợ, chóng sau khi ly hôn…

  1. Vê phân chia di sản

Khi phân chia di sản theo quy định tại Điều 35 của Pháp lệnh, cần chú ý một số điểm sau:

  1. a) Nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra, thì Tòa án phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra thì được hưởng, nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác cùng hàng được hưởng chung phần di sản đó. Trong trường hợp sinh đôi, sinh ba… nếu những người mới sinh ra còn sống từ hai người trở lên và đương sự có yêu cầu, thì phải hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm để phân chia lại tài sản nhằm bảo đảm quyền được hưởng phần di sản ngang nhau của những người thừa kế cùng hàng.
  2. b) Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật. Trong trường hợp không thể phân chia được hiện vật hoặc không thể chia đều hiện vật thì người nhận toàn bộ hiện vật hoặc nhận hiện vật có giá trị cao phải thanh toán tiền chênh lệch cho người không nhận hiện vật hoặc nhận hiện vật có giá trị thấp. Tuy nhiên, khi phân chia tài sản, Tòa án cần chú ý bảo đảm tối đa giá trị sử dụng tài sản, khả năng sử dụng hợp lý tài sản, ổn định đời sống của những người thừa kế và bảo đảm đoàn kết trong gia đình.
  3. Về thời hiệu khởi kiện

Khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế cần chú ý như sau:

  1. a) Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà công dân, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích của mình. Quá thời hạn đó, họ không có quyền khởi kiện nữa. Có hai thời hạn cho hai loại quyền khởi kiện khác nhau đã được quy định cụ thể tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 36, khi áp dụng cần tránh nhầm lẫn.
  2. b) Đối với những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thi thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990, do đó:

– Sau ngày 10-9-2000, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác;

– Sau ngày 10-9-1993, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các chi phí từ di sản.

  1. c) Đối với trường hợp đã quá các thời hạn quy định tại Điều này mà đương sự mới khởi kiện vì có trở ngại khách quan như đương sự bị mất năng lực hành vi, do ốm đau, tai nạn… thì Tòa án vẫn thụ lý và giải quyết theo thủ tục chung. Trong trường hợp đương sự đã không thực hiện quyền khởi kiện trong thời hạn quy định mà không có lý do chính đáng thì Tòa án trả lại đơn kiện cho đương sự theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự .
  2. d) Đối với người thừa kế là người chưa thành niên vào thời điểm mở thừa kế thì thời hiệu khởi kiện về thừa kế được tính từ ngày họ đủ 18 tuổi.
  3. e) Pháp lệnh Thừa kế có hiệu kể từ ngày Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Pháp lệnh là ngày 10-9-1990. Do đó, kể từ ngày 10-9-1990, đối với các vụ án về thừa kế đang được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc đã có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thì đều phải áp dụng các quy định của Pháp lệnh để giải quyết.

Đối với những vụ án về thừa kế đã được giải quyết trước ngày 10-9-1990 theo đúng Thông tư số 81/TANDTC ngày 24-7-1981 của Tòa án nhân dân tối cao mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng các quy định của Pháp lệnh này để giải quyết lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

4 PHẦN THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN Sự NĂM 19951

(Trích)

Phần thứ tư

THỪA KẾ

CHƯƠNG I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 634. Quyền thừa kế của cá nhân

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 635. Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 636. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế

  1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này.
  2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có tòa n bộ hoặc phần lớn di sản.

Điều 637. Di sản

  1. Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

1 Bộ luật Dân sự năm 1995 được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 1996.

01 o

  1. Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này.

Điều 638. Người thừa kế

  1. Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
  2. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Điều 639. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Điều 640. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

  1. Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
  2. Trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế.
  3. Trong trường hợp di sản đã được chia, thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận.
  4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc, thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Điều 641. Người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
  2. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản

và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản, thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cữ được người quản lý di sản.

  1. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý, thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Điều 642. Nghĩa vụ của người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản được quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 641 của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây:
  2. a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
  3. b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
  4. c) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
  5. d) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

  1. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản được quy định tại khoản 2 Điều 641 của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đầy:
  2. a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đồi, tặng cho, cắm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác;
  3. b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
  4. c) Bói thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
  5. d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người đề lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Điều 643. Quyền của người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản được quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 641 của Bộ luật này có các quyền sau đây:
  2. a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;
  3. b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
  4. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản được quy định tại khoản 2 Điều 641 của Bộ luật này có các quyền sau đây:
  5. a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
  6. b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.

Điều 644. Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết trong cùng một thời điềm

Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước, thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỏi người do người thừa kế của người đó hưởng.

Điều 645. Từ chối nhận di sản

  1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
  2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, Công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
  3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kề từ ngày mở thừa kế.

Điều 646. Người không được quyền hưởng di sản

  1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
  2. a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
  3. b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
  4. c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
  5. d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
  6. Những người nói tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

Điều 647. Di sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước

Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, thì di sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước.

Điều 648. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

CHƯƠNG II

THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Điều 649. Di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

Điều 650. Người lập di chúc

  1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
  2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đóng ý.

Điều 651. Quyền của người lập di chúc

Người lập di chúc có các quyền sau đây:

  1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
  2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
  3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
  4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
  5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Điều 652. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản, thì có thể di chúc miệng.

Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.

Điều 653. Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

  1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
  2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
  3. Di chúc bằng văn bản có chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
  4. Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước.

Điều 654. Di chúc miệng

  1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản, thì có thể di chúc miệng. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.
  2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị hủy bỏ.

Điều 655. Di chúc hợp pháp

  1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
  2. a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;
  3. b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
  4. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
  5. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
  6. Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

Điều 656. Nội dung của di chúc bằng văn bản

  1. Di chúc phải ghi rõ:
  2. a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
  3. b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
  4. c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
  5. d) Di sản để lại và nơi có di sản;

đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

  1. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang, thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Điều 657. Người làm chúng cho việc lập di chúc

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
  2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
  3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.

Điều 658. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 656 của Bộ luật này.

Điều 659. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 656 và Điều 657 của Bộ luật này.

Điều 660. Di chúc có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

Người lập di chúc có thể yêu cầu Công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban nhân dân xâ, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc.

Điều 661. Thủ tục lập di chúc tại Công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

Việc lập di chúc tại Công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:

  1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc.
  2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được, thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Điều 662. Người không được chứng nhận, chứng thực di chúc

Công chứng viên, người có thẩm quyền của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được chứng nhận, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
  2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;
  3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Điều 663. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực

Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được Công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bao gồm:

  1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu Công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực;
  2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó;
  3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó;
  4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị;
  5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó;
  6. Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

Điều 664. Di chúc do công chứng viên lập tại chỗ ở

  1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc.
  2. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập

di chúc tại Công chứng nhà nước theo quy định tại Điều 661 của Bộ luật này.

Điều 665. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc

  1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào.
  2. Nếu người lập di chúc bổ sung di chúc, thì di chúc đã lập và phần bổ sung đều có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu phần di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau, thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
  3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới, thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Điều 666. Di chúc chung của vợ, chồng

Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.

Điều 667. Sửa đổi, bổ sung, thay thế hủy bỏ di chúc chung

  1. Vợ, chổng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
  2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung, thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết, thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.

Điều 668. Gửi giữ di chúc

  1. Người lập di chúc có thể yêu cầu Công chứng nhà nước lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc.
  2. Trong trường hợp Công chứng nhà nước lưu giữ bản di chúc, thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của pháp luật về Công chứng nhà nước.
  3. Cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ sau đây:
  4. a) Giữ bí mật nội dung di chúc;
  5. b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại, thì phải báo ngay cho người lập di chúc;
  6. c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai người làm chứng.

Điều 669. Di chúc bị thất lạc, hư hại

  1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc, thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.
  2. Trong trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc, thì di sản được chia theo di chúc.

Điều 670. Hiệu lực pháp luật của di chúc

  1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
  2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
  3. a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
  4. b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không cỏn vào thời điểm mở thừa kế.

Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế, thì chỉ phần di chúc có liên quan đến người chết trước hoặc cùng thời điểm, đến cơ quan, tổ chức không còn đó là không có hiệu lực pháp luật.

  1. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho

người thừa kế chỉ còn một phấn, thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.

  1. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại, thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
  2. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật.

Điều 671. Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chống

Trong trường hợp vợ, chóng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó.

Điều 672. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 645 hoặc khoản 1 Điều 646 của Bộ luật này:

  1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
  2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.

Điều 673. Di sản dùng vào việc thờ cúng

  1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý

để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế, thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng, thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.

Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết, thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

  1. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó, thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

Điều 674. Di tặng

  1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
  2. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người di tặng, thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

Điều 675. Công bố di chúc

  1. Trong trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại Công chứng nhà nước, thì công chứng viên là người công bố di chúc.
  2. Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc, thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định những người được chỉ định từ chối công bố di chúc, thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.
  3. Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Bản sao di chúc phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế.
  4. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc.
  5. Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài, thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước.

Điều 676. Giải thích nội dung di chúc

Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc, thì coi như không có di chúc và di sản được thừa kế theo pháp luật.

Trong trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc, thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực.

CHƯƠNG III

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Điều 677. Thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Điều 678. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

  1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
  2. a) Không có di chúc;
  3. b) Di chúc không hợp pháp;
  4. c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tó chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
  5. d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản.
  6. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đầy:
  7. a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
  8. b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực;
  9. c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Điều 679. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
  2. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
  3. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
  4. c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
  5. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
  6. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu

không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.

Điều 680. Thừa kế thế vị

Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắc được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

Điều 681. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha mẹ đẻ

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 679 và Điều 680 của Bộ luật này.

Điều 682. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế

Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con, thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 679 và Điều 680 của Bộ luật này.

Điều 683. Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác

  1. Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
  2. Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
  3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết, thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

CHƯƠNG IV

THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

Điều 684. Họp mặt những người thừa kế

  1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bổ, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:
  2. a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyển, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
  3. b) Cách thức phân chia di sản.
  4. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Điều 685. Người phân chia di sản

  1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
  2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
  3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

Điều 686. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

  1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
  2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
  3. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
  4. Tiền công lao động;
  5. Tiến bói thường thiệt hại;
  6. Thuê và các món nợ khác đối với Nhà nước;
  7. Tiến phạt;
  8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức khác;
  9. Chi phí cho việc bảo quản di sản;
  10. Các chi phí khác.

Điều 687. Phân chia di sản theo di chúc

  1. Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế, thì di sản được chia đểu cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trong trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật, thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nêu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác, thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
  3. Trong trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản, thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

Điều 688. Phân chia di sản theo pháp luật

  1. Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra, thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để nêu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra, thì những người thừa kế khác được hưởng.
  2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nêu không thể chia đều bằng hiện vật, thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được, thì hiện vật được bán để chia.

Diều 689. Hạn chế phân chia di sản

Trong trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định, thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.

CHƯƠNG VI

THỪA KẾ QUYỀN sử DỤNG ĐẤT

Diều 738. Thừa kế quyền sử dụng đất

Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.

Điều 739. Người được để thừa kế quyền sử dụng đất

Những người sau đây được để thừa kế quyền sử dụng đất:

  1. Cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản;
  2. Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở;
  3. Cá nhân có quyền sử dụng đất do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.

Điều 740. Điều kiện được thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản

Người có đủ các điều kiện sau đây thì được thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản:

  1. Có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích;
  2. Chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của pháp luật về đất đai.

Điều 741. Thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản

Những người được quy định tại khoản 1 Điều 679 và Điều 680 của Bộ luật này và có đủ các điều kiện quy định tại Điều 740 của Bộ luật này được thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản.

Điều 742. Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản

  1. Những người được quy định tại Điều 679 và Điều 680 của Bộ luật này và có đủ các điều kiện được quy định tại Điều 740 của Bộ luật này được thừa kế theo pháp luật đối với quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản.
  2. Trong trường hợp không có người thừa kế có đủ điều kiện quy định tại Điều 740 của Bộ luật này hoặc có nhưng không được hưởng di sản, từ chối nhận di sản, thì Nhà nước thu hồi đất đó.

Điều 743. Thừa kế quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở

Cá nhân, thành viên của hộ gia đình được giao đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở, sau khi chết có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 744. Quyền tiếp tục sử dụng đất của các thành viên trong hộ gia đình

Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu trong hộ có thành viên chết, thì các thành viên khác trong hộ được quyền tiếp tục sử dụng đất do Nhà nước giao cho hộ đó; nếu trong hộ gia đình không còn thành viên nào, thì Nhà nước thu hồi đất đó.

  1. PHẦN THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA Bộ LUẬT DÂN Sự NĂM 20051

(Trích)

PHẦN THỨ Tư

THỪA KẾ

CHƯƠNG XXII

NHỮNG QUY ĐỊNH CHƯNG

Điều 631. Quyền thừa kế của cá nhân

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 632. Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 633. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế

  1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này.
  2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.

1 Bộ luật Dân sự năm 2005 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có hiệu lực thì hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006

Điều 634. Di sản

Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

Điều 635. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tổn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Điều 636. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Điều 637. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

  1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế.
  3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Điều 638. Người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
  2. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cữ được người quản lý di sản.
  3. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Điều 639. Nghĩa vụ của người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây:
  2. a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
  3. b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;
  4. c) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
  5. d) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

  1. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 638 của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây:
  2. a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác;
  3. b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
  4. c) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
  5. d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Điều 640. Quyền của người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này có các quyền sau đây:
  2. a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;
  3. b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
  4. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 638 của Bộ luật này có các quyền sau đầy:
  5. a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
  6. b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.

Điều 641. Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm

Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đểu chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 của Bộ luật này.

Điều 642. Từ chối nhận di sản

  1. Người thừa kế có quyển từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
  2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân

dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

  1. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.

Điều 643. Người không được quyền hưởng di sản

  1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
  2. a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
  3. b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
  4. c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
  5. d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
  6. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

Điều 644. Tài sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước

Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước.

Điều 645. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

CHƯƠNG XXIII

THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Điều 646. Di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyên tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

Điều 647. Người lập di chúc

  1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
  2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

Điều 648. Quyền của người lập di chúc

Người lập di chúc có các quyền sau đây:

  1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
  2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
  3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
  4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
  5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Điều 649. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

Người thuộc dân tộc thiểu số có quyển lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.

Điều 650. Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

  1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
  2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
  3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
  4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

Điều 651. Di chúc miệng

  1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
  2. Sau ba tháng, kề từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

Điều 652. Di chúc hợp pháp

  1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
  2. a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;
  3. b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
  4. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
  5. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
  6. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
  7. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

Điều 653. Nội dung của di chúc bằng văn bản

  1. Di chúc phải ghi rõ:
  2. a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
  3. b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
  4. c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
  5. d) Di sản để lại và nơi có di sản;

đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

  1. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và cổ chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Điều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đảo:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
  2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
  3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.

Điều 655. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 653 của Bộ luật này.

Điều 656. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này.

Điều 657. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.

Điều 658. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:

  1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền

chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bổ. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;

  1. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Điều 659. Người không được công chứng, chứng thực di chúc

Công chứng viên, người có thẩm quyền của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
  2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;
  3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Điều 660. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực

Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực bao gồm:

  1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực;
  2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó;
  3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó;
  4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị;
  5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó;
  6. Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

Điều 661. Di chúc do công chứng viên lập tại chỗ ở

  1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc.
  2. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng theo quy định tại Điều 658 của Bộ luật này.

Điều 662. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc

  1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào.
  2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
  3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Điều 663. Di chúc chung của vợ, chồng

Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.

Điều 664. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng

  1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
  2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.

Điều 665. Gửi giữ di chúc

  1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc.
  2. Trong trường hợp cơ quan công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của pháp luật về công chứng.
  3. Cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ sau đây:
  4. a) Giữ bí mật nội dung di chúc;
  5. b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;
  6. c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai người làm chứng.

Điều 666. Di chúc bị thất lạc, hư hại

  1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.
  2. Trong trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.

Điều 667. Hiệu lực pháp luật của di chúc

  1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
  2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
  3. a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
  4. b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.

  1. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
  2. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.
  3. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.

Điều 668. Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng

Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.

Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sàn hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

  1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chõng;
  2. Con đà thành niên mà không có khả năng lao động.

Điều 670. Di sản dùng vào việc thờ cúng

  1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.

Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

  1. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

Điều 671. Di tặng

  1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
  2. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

Điều 672. Công bố di chúc

  1. Trong trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại cơ quan công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc.
  2. Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định những người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.
  3. Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc.
  4. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc.
  5. Trong trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng.

Điều 673. Giải thích nội dung di chúc

Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì coi như không có di chúc và việc chia di sản được áp dụng theo quy định về thừa kế theo pháp luật.

Trong trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phắn không giải thích được không có hiệu lực.

CHƯƠNG XXIV

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Điều 674. Thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Điều 675. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

  1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
  2. a) Không có di chúc;
  3. b) Di chúc không hợp pháp;
  4. c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
  5. d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
  6. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
  7. a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
  8. b) Phần di sản có liên quan đêh phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
  9. c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
  2. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chống, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
  3. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
  4. c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
  5. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
  6. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Điều 677. Thừa kế thế vị

Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

Điều 678. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này.

Điều 679. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế

Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này.

Điều 680. Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chổng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác

  1. Trong trường hợp vợ, chóng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
  2. Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
  3. Người đang là vợ hoặc chóng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

CHƯƠNG XXV

THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

Điều 681. Họp mặt những người thừa kế

  1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:
  2. a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
  3. b) Cách thức phân chia di sản.
  4. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Điều 682. Người phân chia di sản

  1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
  2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
  3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

Điều 683. Thứ tự ưu tiên thanh toán

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

  1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
  2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
  3. Tiên trợ cấp cho người sống nương nhờ;
  4. Tiền công lao động;
  5. Tiền bồi thường thiệt hại;
  6. Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước;
  7. Tiền phạt;
  8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác;
  9. Chi phí cho việc bảo quản di sản;
  10. Các chi phí khác.

Điều 684. Phân chia di sản theo di chúc

  1. Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trong trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đèn thời điểm phân chia di sản; nêu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
  3. Trong trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

Điều 685. Phân chia di sản theo pháp luật

  1. Khi phân chia di sản nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phẫn di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, đê nêu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
  2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nêu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nêu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

Điều 686. Hạn chế phân chia di sản

Trong trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.

Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định, nhưng không quá ba năm, kể từ

thời điểm mở thừa kế; nếu hết thời hạn do Tòa án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Tòa án cho chia di sản thừa kế.

Điều 687. Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

  1. Trong trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trong trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

CHƯƠNG XXXIII

THỪA KẾ QUYỀN sử DỤNG ĐẤT

Điều 733. Thừa kế quyền sử dụng đất

Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.

Điều 734. Cá nhân để thừa kế quyền sử dụng đất

Cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.

Điều 735. Thừa kế quyền sử dụng đất được Nhà nước gia hộ gia đình

Hộ gia đình được Nhà nước giao đất nện trong hộ có thành Viên chét thi quyền sử dụng đất của thành viên có được để lại cho nhân” người thừa kế theo quy định tại Phán thứ tư của Bộ luật này và ph? luật vê đât đai.

  1. PHẦN THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN Sự NĂM 2015[5]

(Trích)

PHẦN THỨ Tư

THỪA KẾ

CHƯƠNG XXI

QUY ĐỊNH CHƯNG

Điều 609. Quyền thừa kế

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; đề lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.

Điều 610. Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân

Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Điều 611. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế

  1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
  2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có tòa n bộ di sản hoặc nơi có phần lớn di sản.

Điều 612. Di sản

Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

Điều 613. Người thừa kế

Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Điều 614. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế

Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

  1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
  3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Điều 616. Người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
  2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cữ được người quản lý di sản.
  3. Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.

Điều 617. Nghĩa vụ của người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
  2. a) Lập danh mục di sản; thu hói tài sản thuộc.di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
  3. b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đóng ý bằng văn bản;
  4. c) Thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế;
  5. d) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

  1. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
  2. a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác;
  3. b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;
  4. c) Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;
  5. d) Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế.

Điều 618. Quyền của người quản lý di sản

  1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có quyền sau đây:
  2. a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;
  3. b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
  4. c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
  5. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật này có quyền sau đây:
  6. a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;
  7. b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;
  8. c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.
  9. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý.

Điều 619. Việc thừa kế của những người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời điểm

Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi chung là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 652 của Bộ luật này.

Điều 620. Từ chối nhận di sản

  1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc

từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

  1. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
  2. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.

Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản

  1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
  2. a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
  3. b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
  4. c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
  5. d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
  6. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.

Điều 622. Tài sản không có người nhận thừa kế

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.

Điều 623. Thời hiệu thừa kế

  1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
  2. a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
  3. b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
  4. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kề từ thời điểm mở thừa kế.
  5. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

CHƯƠNG XXII

THỪA KẾ THEO DI CHÚC

Điều 624. Di chúc

Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của minh cho người khác sau khi chết.

Điều 625. Người lập di chúc

  1. Người thành niên có đủ điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.
  2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Điều 626. Quyển của người lập di chúc

Người lập di chúc có quyền sau đây:

  1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
  2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
  3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
  4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
  5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Điều 627. Hình thức của di chúc

Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

Điều 628. Di chúc bằng văn bản

Di chúc bằng văn bản bao gồm:

  1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.
  2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.
  3. Di chúc bằng văn bản có công chứng.
  4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

Điều 629. Di chúc miệng

  1. Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
  2. Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thi di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

Điều 630. Di chúc hợp pháp

  1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
  2. a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
  3. b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
  4. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bàn và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
  5. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
  6. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chì được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
  7. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nêu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chủng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Điều 631. Nội dung của di chúc

  1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
  2. a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
  3. b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
  4. c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
  5. d) Di sản để lại và nơi có di sản.
  6. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác.
  7. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gốm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

Điều 632. Người làm chứng cho việc lập di chúc

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
  2. Người có quyển, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
  3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Điều 633. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này.

Điều 634. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.

Điều 635. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực

Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.

Điều 636. Thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc ủy ban nhân dân cấp xã

Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

  1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.
  2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Điều 637. Người không được công chứng, chứng thực di chúc

Công chứng viên, người có thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp xã không được công chứng, chứng thực đối với di chúc nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
  2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chóng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
  3. Người có quyển, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

Điều 638. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực

  1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
  2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
  3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.
  4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
  5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
  6. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.

Điều 639. Di chúc do công chứng viên lập tại chỗ ở

  1. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng viên tới chỗ ở của mình để lập di chúc.
  2. Thủ tục lập di chúc tại chỗ ở được tiến hành như thủ tục lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng theo quy định tại Điều 636 của Bộ luật này.

Điều 640. Sửa đối, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc

  1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đà lập vào bất cứ lúc nào.
  2. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phân bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nêu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
  3. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.

Điều 641. Gửi giữ di chúc

  1. Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc.
  2. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về công chứng.
  3. Người giữ bản di chúc có nghĩa vụ sau đây:
  4. a) Giữ bí mật nội dung di chúc;
  5. b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;
  6. c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của ít nhất hai người làm chứng.

Điều 642. Di chúc bị thất lạc, hư hại

  1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích

thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.

  1. Trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.
  2. Trong thời hiệu yêu cầu chia di sản, trường hợp di sản đã chia mà tìm thấy di chúc thì phải chia lại theo di chúc nếu người thừa kế theo di chúc yêu cầu.

Điều 643. Hiệu lực của di chúc

  1. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
  2. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:
  3. a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
  4. b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.

  1. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
  2. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
  3. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.

Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

  1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
  2. a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chổng;
  3. b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
  4. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.

Điều 645. Di sản dùng vào việc thờ cúng

  1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

  1. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

Điều 646. Di tặng

  1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
  2. Người được di tặng là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người được di tặng không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
  3. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.

Điều 647. Công bố di chúc

  1. Trường hợp di chúc bằng văn bản được lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng thì công chứng viên là người công bố di chúc.
  2. Trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định hoặc có chỉ định những người được chỉ định từ chối công bố di chúc thì những người thừa kế còn lại thỏa thuận cử người công bố di chúc.
  3. Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc.
  4. Người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc,
  5. Trường hợp di chúc được lập bằng tiếng nước ngoài thi bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt và phải có công chứng hoặc chứng thực.

Điều 648. Giải thích nội dung di chúc

Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trường hợp có một phần nội dung di chúc không giải thích được nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của di chúc thì chỉ phần không giải thích được không có hiệu lực.

CHƯƠNG XXIII

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

Điều 649. Thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật

  1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
  2. a) Không có di chúc;
  3. b) Di chúc không hợp pháp;
  4. c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
  5. d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
  6. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
  7. a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
  8. b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
  9. c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

  1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
  2. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chóng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
  3. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
  4. c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
  5. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
  6. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Điều 652. Thừa kế thế vị

Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết

trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.

Điều 653. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ

Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.

Điều 654. Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế

Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.

Điều 655. Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chổng đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác

  1. Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
  2. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
  3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.

CHƯƠNG XXIV

THANH TOÁN VÀ PHÂN CHIA DI SẢN

Điều 656. Họp mặt những người thừa kế

  1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được

công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:

  1. a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyển, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
  2. b) Cách thức phân chia di sản.
  3. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Điều 657. Người phân chia di sản

  1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
  2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
  3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

Điều 658. Thú tự ưu tiên thanh toán

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

  1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.
  2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.
  3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.
  4. Tiên trợ cấp cho người sống nương nhờ.
  5. Tiền công lao động. ,
  6. Tiền bồi thường thiệt hại.
  7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.
  8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.
  9. Tiến phạt.
  10. Các chi phí khác.

Điều 659. Phân chia di sản theo di chúc

  1. Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nêu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kể được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
  3. Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.

Điều 660. Phân chia di sản theo pháp luật

  1. Khi phân chia di sản, nêu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nêu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
  2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.

Điều 661. Hạn chế phân chia di sản

Trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận

của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được đem chia.

Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.

Điều 662. Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế

  1. Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.